Thanh Bạch • Tổng hợp truyện ngắn

THÍCH KHÁCH TÂY VỰC {3}



4.

Trước khi bước vào đạo quán, Thanh thoáng do dự, không biết nên xưng hô với người bên trong là tam cô, sư phụ hay Thanh Bình công chúa đây? Quán chủ là tam tỷ của phụ hoàng, xuất gia từ nhỏ, lên núi Thanh Thành tu hành, Thanh Bình chính là pháp danh của bà. Võ nghệ cao cường lại vô cùng nghiêm khắc, trong ký ức của Thanh, sư phụ chưa từng một lần nở nụ cười. Một con người tưởng chừng vô tình như vậy, thật không hiểu sao mà có thể lén lút ăn nằm với Lưu đô thống.

Thanh biết mình được sư phụ nuôi lớn, cũng do một tay bà dạy dỗ kinh sách và võ nghệ, nhưng đồng thời cũng căm hận bà đã lợi dụng mình, nhất là chuyện lừa gạt đưa nàng sang tận Ba Tư. Dẫu vậy, giờ đây, bà lại là người thân duy nhất còn lại của Thanh.

Mùi gỗ đàn, mùi khói hương, mùi đất ẩm sau cơn mưa núi quyện vào từng hơi thở. Nhìn kỹ những đạo cô trẻ đang quét lá trên bậc thềm đá, Thanh nhận ra toàn những gương mặt sư tỷ, sư muội quen thuộc. Mọi thứ trên núi vẫn y như ngày nào, chỉ vì thiếu vắng một người mà cảnh càng quen, lòng lại càng trống rỗng, hệt như có một khoảng không thực sự bị khoét sâu trong tim, đau đến cùng cực.

Người đang hướng dẫn mọi người luyện kiếm là Mặc. Nàng lớn hơn Bạch một tuổi rưỡi, thực lực năm xưa chỉ xếp sau Thanh và Tiểu Bạch, thuộc nhóm thứ hai trong đạo quán. Chiêu cuối cùng của bộ kiếm pháp – "Đạo Pháp Tự Nhiên" – Mặc dù cố gắng thế nào cũng không thể thi triển một cách nhuần nhuyễn. Thực ra, phần lớn các sư tỷ muội khác thậm chí còn chưa luyện được đến chiêu cuối cùng này, cả bộ kiếm pháp cũng chỉ lĩnh hội được một nửa. Người duy nhất trong toàn đạo quán có thể múa trọn vẹn tất cả các chiêu thức một cách phóng khoáng và đẹp mắt nhất chính là Tiểu Bạch. Nàng đã từng cầm tay chỉ dạy cho Mặc rất nhiều lần. Nghĩ đến đây, Thanh không khỏi bật cười thầm. Giờ phút này, nàng cuối cùng cũng chịu thừa nhận rằng, năm xưa mình đã từng ghen tị vì điều đó.

"Tiểu Thanh, là muội đó sao?" – Có người nhận ra sự hiện diện của nàng, và gần như ngay lập tức, tất cả mọi người đều xúm lại vây quanh.

"Trời ơi, thật sự là muội, Tiểu Thanh! Bọn tađều ngỡ... ngỡ muội đã chết rồi, bao nhiêu năm nay không chút tin tức."

"Không thể tin nổi! Muội đã làm cách nào để sống sót trở về từ nơi đó vậy?"

"Trông muội khác quá! Lớn hơn, cao hơn, lại còn rám nắng nữa..."

Không một ai nhắc đến cái tên cũng đã biến mất kia, dường như giữa họ có một sự ngầm hiểu nào đó.

"Các vị sư tỷ, sư muội," – Thanh cúi đầu hành lễ – "Xin cho phép muội được gặp sư phụ trước, sau đó sẽ cùng mọi người hàn huyên."

Dường như muốn trốn tránh những cử chỉ thân thiết đã trở nên quá đỗi xa lạ, Thanh vội vàng bước nhanh qua đám đông, đi lên những bậc thang dẫn đến chính điện ẩn hiện trong mây mù. Nàng vòng qua bức tượng đồng Tam Thanh [1] cao lớn, tiến về phía sau điện thờ. Vừa nhìn, nàng đã thấy Thanh Bình công chúa vẫn ngồi thiền ở vị trí cũ, ngay cả tấm bồ đoàn dưới chân dường như cũng chưa từng thay đổi.

[1] Tam Thanh là ba vị thần tối cao trong Đạo giáo.

"Sư phụ!" – Cuối cùng, Thanh vẫn thốt ra cách xưng hô có phần trung dung này, rồi dứt khoát cúi người hành lễ.

"Về rồi sao?" – Thanh Bình công chúa thản nhiên cất tiếng, giọng nói đều đều như thể chưa hề mở miệng, chỉ có mí mắt khẽ nhướng lên. Gương mặt hằn rõ dấu vết thời gian của bà vẫn giữ vẻ căng cứng thường lệ.

"Vâng." – Thanh đáp, đoạn lấy từ trong ngực áo ra một chuỗi tràng hạt, cẩn trọng đặt vào bàn tay gầy guộc của sư phụ.

Sư phụ cúi đầu, khẽ vê mấy hạt trên chuỗi tràng, rồi thở dài một hơi, hỏi tiếp: "Chết như thế nào?"

"Vào tháng Muharram, đêm trước ngày lễ tưởng niệm các thánh tử đạo, tín đồ thường rạch một vết trên da đầu, để máu chảy xuống mặt, mô phỏng theo những người đã tử vì đạo năm xưa. Nhưng ông ấy thì khác, là tù binh bị bắt, nên đã bị lột cả mảng da đầu."

"Đừng nói nữa!"

Thanh thấy thân hình sư phụ run lên bần bật, trong giây lát như không thở nổi.

"Vâng."

"Hắn vốn theo Phật, không phải thái giám, chỉ là trong một lần giao chiến với người Đột Quyết đã bị thương..." – Bà cúi đầu, lẩm nhẩm vài câu, nhưng rồi cũng thôi, không muốn nói thêm nữa.

Đó chỉ là một lời nói dối được điểm xuyết vài chi tiết có thật, nhưng Thanh không hề cảm thấy mảy may day dứt. Đây mới chính là cái kết mà nàng muốn dành cho Lưu đô thống; sự thật thì lại nhẹ nhàng và ít thống khổ hơn nhiều.

Chính hắn đã dạy nàng phải khắc cốt ghi tâm những ngày lễ hội này. Hai năm trước, vào một ngày tháng Muharram, Lưu đô thống tỏ vẻ đầy bí hiểm, nói rằng muốn đích thân thực hiện một nhiệm vụ ám sát. Hắn rất hiếm khi tự mình động thủ, trừ phi đó là một địa điểm hoàn hảo để hành thích, nơi mà chỉ nam nhân mới có thể trà trộn. Thích khách có thể cải trang thành đủ mọi loại người, nhưng việc giả dạng giới tính khác thì khó khăn hơn nhiều, đặc biệt là trong một số nghi lễ ở Tây Vực, nơi những người tham gia thường phải để trần ngực. Đó là ngày thứ chín của tháng Muharram, thời điểm lễ hội lên đến cao trào nhất. Thanh đoán được hắn sẽ tham gia vào loại nghi lễ nào – gần đây, mục tiêu của bọn họ vẫn luôn là vị thủ lĩnh của giáo phái đó. Vì vậy, vào đêm trước khi Lưu đô thống lên đường, Thanh đã vô cùng "tốt bụng" bôi độc lên con dao găm tùy thân của người đồng liêu đang say khướt rượu cùng đám Ba Tư trong bữa tiệc tối. Ngay trước mặt mọi người, nàng phết từng lớp, từng lớp nọc độc của rắn hổ lục lên lưỡi dao. Chẳng ai thấy có vấn đề gì khi các thích khách giúp đỡ nhau, và cũng chẳng ai thấy có vấn đề gì khi một người ra đi rồi không bao giờ trở lại. Con người mà, chết thì có gì lạ đâu, chết hôm nay hay chết ngày mai cũng vậy cả thôi.

Nọc độc ngấm vào từ vết thương trên da đầu, chắc cũng không hành hạ hắn quá lâu. Người Đại Thực đã xử lý thi thể của tên thích khách, không để lại bất kỳ dấu vết nào.

"Trên đường đi hẳn con đã nhận được nhiệm vụ mới rồi chứ?" – Thanh Bình công chúa lại lên tiếng – "Ta đã cố tình sai người trà trộn vào sứ đoàn để truyền tin cho con."

"Vâng..." – Lần này, đến lượt Thanh cảm thấy một nỗi đau âm ỉ trong lòng.

"Lũ phản tặc, không thể tha cho một tên nào, đã diệt cỏ thì phải nhổ tận gốc. Trước kia tình cảm của các con rất tốt, nhưng lòng người dễ thay đổi. Đã xa cách chín năm rồi, cả hai đều không còn là người thân thuộc nữa."

Sư phụ trầm giọng ngâm: "Hỏi quân Tây du bao giờ về? Đường xa cheo leo trèo chẳng tới. Chỉ thấy chim buồn kêu cổ thụ, đôi chim quanh quẩn trong rừng héo hon. Đêm về cuốc gọi trăng non, núi sầu quạnh quẽ,..." [2]

[2] Đây là câu thơ được phỏng theo bài "Thục đạo nan" (Đường xứ Thục khó đi) của Lý Bạch, diễn tả nỗi niềm xa cách và hiểm trở.

Thanh im lặng không đáp.

"Phòng của con, ta vẫn giữ nguyên, vẫn thường sai người quét dọn. Thấy chưa, cuối cùng người thực sự chờ đợi con vẫn là ta đây." – Bà lại tiếp – "Ta dù sao cũng đã lớn tuổi, chờ con bao lâu cũng chờ được. Tiểu Bạch thì khác, nó còn có cuộc sống của riêng mình, tuổi xuân đâu kéo dài mãi... Bầu bạn cũng chỉ có thể đến thế thôi."

"Con hiểu, thưa sư phụ. Ngoài sư môn, con vốn cũng không còn nơi nào để đi."

"Năm đó, một tờ chiếu chỉ của triều đình đã đưa tất cả các con đến đây. Kể từ ấy, nơi này đã định sẵn là nhà của các con. Ta đã nhọc công nuôi dạy các con thành tài, rồi lại nén lòng đẩy các con vào hiểm nguy, cũng chỉ mong sớm ngày bình định được nội ưu ngoại loạn, trả lại thái bình cho quốc gia. Con có thấu hiểu được nỗi khổ tâm của ta không, Tiểu Thanh?"

"Đây là trọng trách mà huyết thống đã trao cho con."

"Con có thể nghĩ như vậy là tốt rồi." – Thanh Bình công chúa mỉm cười ý nhị – "Con và Tiểu Bạch là hai đứa có tư chất thông minh nhất. Từ nhỏ ta đã rất coi trọng các con, tin rằng cả hai sẽ cùng nhau trở thành niềm tự hào của hoàng tộc. Chỉ là, không ngờ, cuối cùng chỉ có đứa muội muội là con đây có trách nhiệm."

"Đa tạ tam cô khen ngợi."

"Thôi được rồi, đường sá xa xôi, con cũng mệt rồi, nghỉ ngơi sớm đi."

Tuy nhiên, ngay khi Thanh vừa định quay người cất bước, sư phụ lại thình lình gọi nàng lại: "À phải rồi, còn một việc nữa."

"Việc gì ạ?"

"Kiếm Nam cũng đang dậy sóng vì thích khách. Có người chứng kiến nói là người Tây Vực. Trước khi con thực hiện nhiệm vụ kia, tốt nhất hãy điều tra xem trong phủ của phiên vương có còn nuôi dưỡng cao thủ nào không."

"Người Tây Vực?" – Thanh lập tức tỏ ra hơi chút hứng thú – "Có dấu vết gì không?"

"Kẻ đó lúc ẩn lúc hiện, một năm ra tay chẳng được mấy lần, nhưng mỗi lần đều nhắm trúng vào yếu huyệt của chúng ta..." – Gương mặt Thanh Bình công chúa thoáng u sầu – "Ngay tối hôm qua, Binh Mã Sứ đã chết thảm trong phủ, bị người ta cắt cổ."

"Binh Mã Sứ? Đó chẳng phải là người của phiên vương sao?" – Thanh cười nói – "Đây há chẳng phải chuyện tốt? Còn điều tra thích khách đó làm chi nữa?"

"Không tốt! Tối hôm trước, ta vừa mới dùng tiền tài để mua chuộc hắn. Chuyện này vốn dĩ phải rất bí mật. Vậy mà hành tung của ta lại bị kẻ khác theo dõi, trong khi bản thân ta không hề hay biết."

"Sao có thể như vậy được? Sư phụ là cao thủ số một đất Ba Thục mà!"

"Già rồi, không muốn thừa nhận cũng không được. Cho nên mới phải đợi con về." – Bà thở dài – "Tên thích khách đó, đối với cả ta và con, tuyệt đối là một nhân vật cực kỳ nguy hiểm."

Thanh không mấy bận tâm, khẽ cười, rồi buông lời trêu chọc: "Cũng thật hiếm thấy, 'Thanh Bần' công chúa mà cũng có ngày phải dùng đến thủ đoạn kim tiền."

"Cũng là nhờ phúc của con," – Sư phụ ung dung đáp – "Những thứ con gửi về từ Ba Tư, rất nhiều món đều là bảo vật vô giá."

Thanh kinh ngạc, trợn tròn mắt: "Mọi người... đã nhận được sao?"

"Đương nhiên, những thương đoàn đó đều rất trọng chữ tín, sứ giả đưa tin cũng không dám tùy tiện xem nhẹ đạo quán này."

"Tất cả... đều bị người giữ lại hết rồi sao?"

Bà ta tỏ vẻ dửng dưng, nhếch mép cười khẩy: "Ta biết con muốn đưa cho ai, dù không có những thư tín đó ta cũng đoán ra. Nhưng nó đã phản bội, đồ vật con gửi về đương nhiên được xem là tài sản chung của đạo quán. Con phải biết, sau khi con đi chưa đầy hai năm, nó cũng đã rời khỏi nơi này."

Thanh căm phẫn siết chặt nắm tay.

"Ta chỉ thấy không đáng thay cho con. Nó hại con lưu lạc đến nơi xa xôi như vậy, còn mình thì ở đây an nhàn hưởng thụ, vậy mà cuối cùng vẫn là con ngày đêm canh cánh vì nó."

"Vậy là... tỷ ấy thực sự ngay từ đầu đã biết người thắng cuộc trong trận tỷ thí đó sẽ phải trở thành thích khách Tây Vực sao?"

"Chuyện này thì khó nói," – Thanh Bình công chúa ra vẻ bất đắc dĩ, lắc đầu – "Nó vốn khéo léo, tin tức lại nhạy, ai biết được lúc ta phụng chỉ có con chim sẻ nào đó tình cờ nghe lén được rồi âm thầm báo cho nó hay không."

"Thôi, chuyện này con cũng chẳng còn bận tâm nữa," – Thanh thở dài – "Nếu như số phận đã định một trong hai chúng con phải đến Ba Tư, thì xét cho cùng, con vẫn là người thích hợp hơn."

"Điều này thì đúng thật," – Sư phụ trìu mến vươn tay ra, nhẹ nhàng xoa nắn cánh tay đã trở nên săn chắc của Thanh.

"Chín năm cách biệt quả thực đã làm thay đổi tất cả, con không oán hận quá khứ, nhưng cũng sẽ không nương tay với hiện tại."

"Tốt lắm, ta biết mà, con từ Tây Vực về, lại có thể toàn mạng, nhất định là kẻ phi thường!"

"Tam cô vừa nói tên thích khách kia cũng là người Tây Vực?" – Thanh đột nhiên lại cảm thấy có một điều gì đó mơ hồ, kỳ lạ.

"Đúng vậy, có người nói thích khách đó đeo mặt nạ của kỵ binh Ba Tư, khoác áo bào gấm sặc sỡ, lại còn đeo đầy trang sức vàng bạc, toàn thân tỏa ra mùi hương liệu."

"Nghe có vẻ như cố tình dàn dựng," – Thanh nhận xét – "Thích khách nào lại đeo trang sức leng keng, mình đầy hương liệu khi đi hành thích chứ, đó chẳng phải là tự bại lộ thân phận sao?"

"Ai mà biết được? Có lẽ đó là một cách che giấu có chủ ý, hoặc cũng có thể là vì một loại nghi thức nào đó, cộng thêm sự tự tin tuyệt đối vào thực lực bản thân. Tóm lại, chuyện của nữ thích khách kia, con nhất định phải để tâm."

"Khoan đã, là nữ?" – Thanh không khỏi bật cười – "Vậy chẳng phải đáp án quá rõ ràng rồi sao? Cả Kiếm Nam này, ngoài Bạch sư tỷ của con ra, còn ai có bản lĩnh đó chứ?"

"Con cho rằng ta chưa từng nghi ngờ sao? Nhưng tai mắt ta cài cắm bên cạnh nó báo lại rằng, những năm gần đây nó không hề luyện kiếm nữa, công phu e là chẳng bằng năm mười lăm tuổi. Huống hồ, xem xét vết thương của những kẻ đã chết, thích khách quen dùng tay trái, trong khi Tiểu Bạch xưa nay vẫn luôn thuận tay phải."

"Thuận tay trái ư..." – Thanh ngẩn người – "Nghe cứ như là con gây ra vậy, lại còn đúng lúc đều liên quan đến Tây Vực."

"Thôi được rồi, đừng cố ý nói lời này để phủi sạch hiềm nghi của mình nữa," – Sư phụ mất kiên nhẫn nói – "Ta biết con mới vừa về."

"Chỉ là để tránh tai bay vạ gió mà thôi," – Thanh đáp – "Con sẽ đi điều tra kỹ càng, có điều không biết tam cô có thể tạm thời hoàn trả Thanh Hồng Kiếm cho con được không, để tiện bề ứng phó với tên thích khách kia."

"Kiếm của con... không ở chỗ ta..." – Bà ngập ngừng, vẻ mặt lộ rõ sự khó xử.

"Sao lại thế? Lưu đô thống đã tịch thu kiếm và hành trang của con, sau này khi con thu dọn di vật của ông ấy cũng không hề tìm thấy bất kỳ món đồ nào ông ấy đã lấy của con khi xưa. Hẳn đã sớm nhờ người mang về rồi chứ, dẫu sao thanh kiếm đó cũng là bảo vật mà sư phụ vô cùng quý trọng."

"Đúng là có mang về, chỉ là..." – Thể như trí nhớ đột nhiên suy giảm, Thanh Bình công chúa nhắm mắt suy nghĩ một lát rồi mới lên tiếng – "Phải rồi, Tiểu Bạch đã lấy mất. Lúc nó rời đi, đã mang theo thanh kiếm đó."

"Sao sư phụ lại cho phép tỷ ấy lấy đi? Tỷ ấy đã có Bạch Ất rồi mà."

"Nó lén trộm, ta cũng phải mấy ngày sau mới phát hiện ra."

Lý do này không thể nào thuyết phục được Thanh, nàng thầm đoán, chắc chắn thanh kiếm cũng đã bị sư phụ đem đi mua chuộc kẻ khác rồi. Tối nay cứ đến phủ Binh Mã Sứ đó xem sao, biết đâu đã được tặng cho người này.

Nàng rời khỏi chính điện, trở về phòng mình. Tam cô nói không sai, nơi này đã được quét dọn vô cùng sạch sẽ, mọi đồ đạc bày biện vẫn còn nguyên như cũ, không hề thay đổi, kể cả hai tấm đệm trên giường, chúng vẫn được đặt ở vị trí hướng ra phía cửa sổ, lặng lẽ nằm đó dưới ánh nắng ban trưa.

Khi Thanh ngâm mình trong làn nước nóng, giữa một khoảng không mờ ảo hơi nước, cuối cùng nàng vẫn buông thả cho những giọt nước mắt lăn dài trên má, rồi bật khóc nức nở.

Ngay từ lúc đặt chân đến thành Quy Tư, nàng đã gần như suy sụp hoàn toàn, cố gắng gượng đến tận bây giờ chả qua cũng chỉ là nhờ vào sức chịu đựng phi thường mà thôi.

Ở đó, cuối cùng nàng cũng gặp được một vị sứ thần từ trong cung tìm đến. Trông gương mặt của vị thái giám ấy, nàng thậm chí còn cảm thấy có chút thân quen, đoán rằng có lẽ khi bé đã từng gặp qua. Nào ngờ, cuộc trò chuyện sau đó lại giáng cho nàng – một kẻ đang nóng lòng về quê cũ – một đòn chí mạng.

"Ồ, công chúa hỏi về sinh mẫu [3] của người sao... Xin người cứ yên tâm, ai cũng đều ghi nhớ công lao của người, đã truy phong cho bà ấy lên bậc Tần phi, an táng vô cùng long trọng. Lúc bà ấy lâm bệnh, mọi người còn đích thân đến thăm vài lần, bà ấy vẫn luôn miệng nhắc đến hậu sự của mình, tóm lại cũng có thể xem như đã toại nguyện rồi."

[3] Mẹ ruột, người đã sinh ra mình.

"Tỷ tỷ, vị tỷ tỷ nào cơ? À à, là An Nam công chúa sao, ngài ấy và Kiếm Nam Tiết Độ Sứ, cả nhà họ ba người sống rất hòa thuận. Đúng vậy, chính là A Bạch, chẳng lẽ công chúa còn chưa biết ngài ấy đã thành hôn từ mấy năm trước rồi ư? Thập lý hồng trang, phong quang đại giá [4]! Chỉ có điều, công chúa sau khi trở về tốt nhất đừng nên qua lại gần gũi với ngài ấy nữa, nghe nói vị phiên chủ kia mấy năm gần đây đã manh nha ý đồ tạo phản..."

[4] Thành ngữ miêu tả một đám cưới vô cùng xa hoa, linh đình và danh giá thời xưa. "Thập lý hồng trang" ám chỉ của hồi môn của cô dâu nhiều đến mức đoàn rước dâu phải kéo dài hàng cây số, thể hiện sự giàu có và vị thế của gia tộc. "Phong quang đại giá" nghĩa là gả đi một cách vẻ vang, rạng rỡ.

Không đến gần sao được, Thanh hít một hơi sâu, ai bảo nhiệm vụ mới nhất của nàng chính là ám sát cả nhà Tiết Độ Sứ? Chỉ khi đến thật gần mới có thể đâm một nhát xuyên tim.

Nàng buông lời cay nghiệt với tên vương tử Ba Tư, thực ra không phải hoàn toàn vì căm hận hắn, mà phần nhiều là đang trút giận lên một kẻ đồng cảnh ngộ, như thể chỉ có thế mới khiến số phận mình bớt vài phần bi đát. Nàng không muốn thừa nhận rằng mình cũng là một kẻ đáng thương đã mất đi cả 'đất và nước'.

Trời vẫn còn sớm, Thanh chỉnh tề y phục rồi đi dạo một vòng quanh núi. Khi nàng đến khu rừng trúc, nơi trước đây thường cùng Bạch luyện kiếm, lại bất ngờ phát hiện có thêm một ngôi mộ lẻ loi.

Chỗ này cách đạo quán khá xa, bình thường sẽ chẳng có sư tỷ muội nào khác lui tới, nàng không khỏi tự hỏi, liệu ai đã được chôn cất ở đây? Nhưng đất Đông Xuyên thì đâu có tục dựng bia mộ, thường thì ngoài thân nhân ruột thịt ra, chả ai biết được dưới lớp đất vàng đấy rốt cuộc là ai đang yên nghỉ.

Cỏ trên mộ đã mọc khá cao, xem chừng đã được chôn cất vài năm rồi. Nàng mơ hồ cảm thấy ngôi mộ này có thể có liên quan đến mình, bèn tiến lại gần quan sát kỹ hơn, chợt nhận ra mọi thứ đều có vẻ kỳ lạ và đáng ngờ.

Có dấu vết đất mới bị đào xới.



*** Góc phân tích nhỏ ***

"Nàng không muốn thừa nhận rằng mình cũng là một kẻ đáng thương đã mất đi cả 'đất và nước'."

Ở đoạn nói vương tử Ba Tư mất đi đất và nước thì đúng theo nghĩa đen chính là đất nước, còn ở đoạn nói Thanh mất đi 'đất và nước' thì lại dùng theo nghĩa bóng, đó là:

• Mất đi quê hương, cội nguồn: Thanh bị đưa khỏi quê hương từ khi còn rất trẻ, phải lưu lạc ở Tây Vực rất nhiều năm nên đã trở nên xa cách với cội nguồn của mình, kể cả tiếng mẹ đẻ sử dụng đã có phần cứng nhắc.

• Mất đi sự kiểm soát và tự do: Cuộc đời Thanh bị người khác sắp đặt, bị lừa gạt, không được tự quyết định số phận của mình.

• Mất đi những mối quan hệ thân thuộc: Thanh xa cách Bạch, và sau này thì biết tin mẹ mình đã qua đời. Những mối liên kết tình cảm quan trọng nhất của đã bị cắt đứt.

Chương trước Chương tiếp
Loading...