Thà rằng chính trực mà thiếu thốn, chứ không khuất tất để dư thừa
Phúc Khánh lâu cách Chu Gia không xa lắm, khi Cố Uyên và mọi người về tới, đèn đuốc vẫn chưa lên.
Nhân lúc trời còn sáng, Cố Uyên trải giấy bút ra trên chiếc bàn nhỏ, lấy từ trong hộp sách ra tập văn Bát cổ[1] mà nàng mượn được, bắt đầu lật giở, chép từng trang một.
[1] Văn chươ
ng Bát cổ là một thể văn biền ngẫu tám vế dùng trong khoa cử
bắt đầu từ
triều Tống và kéo dài hết triều Minh."Lại chép tiếp?"
Lý Thanh, cô nương cùng phòng với nàng, khi ấy khệ nệ xách chậu nước nóng từ dưới bếp lên, xem chừng đã tắm rửa xong xuôi và thay một bộ quần áo vải tinh tươm. Lý Thanh vừa dùng chiếc khăn khô xổ vải lau mái tóc dài vừa nhìn người đang nghiêm nghị cầm bút lông ngồi bên bàn, nói với ngữ điệu trách móc:
"Từ khi vào kinh đến giờ, ta thấy cô đã chép đến bảy tám tập văn Bát cổ, chắc có lẽ bình chú của các các lão đại nhân trong Nội các cô cũng đã chép hết sạch rồi. Ta nhẩm tính thay cô này, một tập Bát cổ giá ba trăm đồng, một tháng tám cuốn là hai lượng tư bạc, phí khách trạm là một lạng rưỡi, ăn uống thì... bánh màn thầu ở đầu phố kia, năm đồng hai cái, mỗi ngày mười lăm đồng, cộng lại là bốn trăm năm mươi đồng, cũng phải thêm chút rau dưa, coi như mỗi tháng nửa lạng, cuối cùng còn dư được bao nhiêu chứ? Người ta vẫn nói kinh thành gạo châu củi quế[2], cô nhập kinh một chuyến mà vẫn còn kiếm được tiền mà về, ta bội phục!"
[2] Ý nói đắt đỏ, gạo như
trân châu, củi như
cành quế.Lý Thanh và Cố Uyên từ nhỏ theo học cùng thầy, gắn bó lâu năm, nói năng vốn không kiêng dè. Cố Uyên nghe mà không đáp, dồn tâm trí vào múa bút thành văn, miệt mài như thế đến khi trời tối mới dừng bút, mấy ngón tay mỏi xoa xoa đôi mắt đẹp.
"A Uyên," Trên giường tre, Lý Thanh đã ngủ một giấc ngắn, nghe tiếng nước liền nói vọng sang, mắt vẫn nhắm lại: "Cái váy mới mua của ta còn trong chậu, cô cẩn thận đừng để nước bắn vào đấy!"
Cố Uyên đáp một tiếng, coi như lưu ý. Lát sau, nàng đỡ mái tóc ướt đi ra, treo chiếc váy vải xanh ngọc đã giặt sạch của mình lên một trong sân. Thế rồi nàng lại tìm đâu đấy mấy cây sào tre, dựng sơ sài thành một cái giá bên cửa sổ, cẩn thận treo chiếc váy lụa màu xanh nhạt của Lý Thanh lên trên ấy.
"Mặc chiếc váy lụa, ngày đêm sợ trộm." Tay chân Cố Uyên bận rộn, hành động cẩn thận chu đáo mà thần sắc tỏ vẻ không tán thành, "Chúng ta nhập kinh ứng thí, mọi việc giải quyết bằng năng lực, năng lực thì nói bằng văn chương, cần phải màu mè ăn diện như vậy cho tự chuốc thêm phiền phức?"
"Người có năng lực tới đâu đi chăng nữa cũng đều cần phải mặc đẹp." Lý Thanh không phục, nói lại. "Nếu không có chiếc váy lụa này thì e là nhiều nơi đàm luận văn chương cũng sẽ chẳng cho chúng ta vào đấy. Cô nhìn xem tất cả những người ở người Kinh thành có mà không nhìn người qua y phục, nói chuyện bằng vẻ ngoài chứ?"
"Hai vị cô nương Lâm gia hôm nay chúng ta gặp hôm nay không giống như vậy." Tấm mành tre cũ kĩ sột soạt, một tiểu nương tử mặc xiêm y đỏ nhạt và gương mặt trẻ măng khoảng mười sáu mười bảy tuổi bước vào. Một tay nàng cầm gói lá sen, một tay bốc củ ấu đưa cho hai người. "Tên đó nói ấu mới hái hôm nay, giá năm mươi đồng cơ đấy, hai người nếm thử xem thế nào?"
"Cũng không tệ." Lý Thanh bóc một củ, chầm chậm nhai trong miệng, "Chỉ là vẫn không bằng Phúc Khánh lâu. Bát nước đá đó một lạng bạc một bát, giữa buổi trưa nắng gắt, ngồi trong phòng trang nhã, gọi một bát nước đá, cái cảm giác ấy thật không gì sánh bằng!"
Nàng đó vừa nói vừa diễn một bộ dáng đảo mắt láo liên, bắt chước y hệt vẻ mặt của chủ nhà thuê. Còn chưa nói xong, Cố Uyên và Hứa Tịch đã che miệng muốn cười lăn.
"Thật là!" Hứa Tịch cười một hồi lâu, xoa mắt, nói, "Cẩn thận lão Chu kia nghe được thì lại đến đuổi người, không đuổi thì cũng tăng tiền nhà chúng ta cho mà xem!"
Tài tử khắp thiên hạ tề tựu ở kinh sư, hễ đến những năm khoa cử, người dân có nhà trong kinh thành sẽ dọn ra ngoại ô ở ít lâu, để nhà cho các sĩ tử thuê lại, ôn thi. Đó gọi là biết nắm bắt thời cơ.
Mấy người hội Cố Uyên vận khí không tốt, xuất phát từ Hải Châu, theo thuyền chở lương xuôi dòng vào kinh, rủi thay dọc đường lại bị liên đới trong một vụ án, vô cớ bị liên lụy. Vậy là bị kẹt trên thuyền gạo gần một tháng, đến khi vào kinh thì sĩ tử ứng thí đã lo được nơi ăn chốn ở gần hết rồi, nhóm mấy người họ nhìn quanh thấy không còn chỗ nào để tá túc. Vẫn còn chút vận may, có nhà này tình cờ phải về quê một chuyến, Cố Uyên hết sức hết lòng thuyết phục gia chủ mới có thể có phòng cho cả hội ở đến ngày yết bảng hai mươi tháng tám. Có điều, tiền nhà cũng đắt nhất nhì, một gian phòng chia hai vách chắp vá mà một tháng phải trả tới lạng rưỡi bạc, đắt hơn những nơi khác phải gấp ba. Nhưng cũng đành chịu, học trò khó khăn, nhà nghèo đi xa, có mái che đầu là đủ, còn đòi hỏi thêm gì nữa?
Cố Uyên cười cười, chỉnh lại ngọn đèn dầu, rồi lại cầm bút lên. Hứa Tịch ngồi đối diện Lý Thanh, chia đôi phần củ ấu đùm trong lá sen, một nửa gói lại để bên gối Cố Uyên: "Thật lòng mà nói, ta cũng chẳng sợ bị đuổi. Hai vị cô nương Lâm gia kia, xem ra không phải người thường, có mệnh hệ gì, chỉ cần họ chịu ra mặt thì chúng ta có lẽ sẽ được yên. Chỉ có điều mặc dù Cửu cô nương kia hoà nhã lịch sử, có vẻ dễ nói chuyện, nhưng sau cùng thì cũng chỉ là tình cờ gặp gỡ, quan hệ xã giao khó mở lời."
"Cô thì khó mở lời là đúng rồi." Lý Thanh cười ý nhị, "Còn A Uyên mà mở miệng thì lại khác ngay!" Thấy Cố Uyên quay đầu lại liếc mình một cái, cô nàng càng cười đầy ẩn ý, "Tôi nhớ, Lâm Cửu nương khen văn chương của Cố tiểu nương tử như ngọc thêu trên gấm, nét bút ấy một chữ đáng ngàn vàng, như vậy... chỉ cần Cố tiểu nương tử đem bán vài cuốn Bát cổ mà nàng chép, chớ nói đến ngàn vàng, chỉ cần trăm lạng bạc cũng đủ mua lại cả cái sân này rồi. Ở đến năm sau cũng không lo!"
Hứa Tịch cười khúc khích, đáp: "Chỉ sợ A Uyên đi một chuyến, đi xong thấy bạc về mà người lại không về nữa!"
Lý Thanh càng vui: "Như vậy chẳng phải còn hay hơn à? Hai chúng ta cũng không cần thi nữa, chia bạc về quê, để tôi tính nhé - ruộng dâu ở nhà năm lạng một mẫu, chúng ta mua mười lăm mẫu, chỉ bán lá dâu cho các nhà dệt, được tiền lãi mình mở một xưởng tằm, lúc rảnh dựng thêm vài khung cửi, gia nghiệp như thế là khá quá rồi!"
Ba người đều là người Ngô Châu, tuy không cùng phủ, nhưng cũng coi như đồng hương, cùng đi thuyền chở lương từ Hải Châu xuôi vào kinh. Ba cô nương, trên đường cùng ăn màn thầu cùng ngủ ván gỗ, quan hệ đã thân thiết không câu nệ gì. Trong ba người, Cố Uyên lớn tuổi nhất, thường bị hai người kia dựa dẫm ỷ lại như là đại tỷ, đành liếc hai người một cái, nhắc nhở: "Nói nhỏ thôi, bị người ta nghe thấy thì không hay. Người ta bảo trong kinh thành miệng từ hoạ ra, hai vị cô nương kia coi khí chất không phải người thường, nếu phạm phải quý nhân, coi chừng họa sát thân."
"Chính vì thấy hai vị ấy không phải người thường, nên bọn ta mới khuyên cô để tâm." Lý Thanh thu nụ cười, nghiêm túc nói, "A Uyên, cô có tài, nhân phẩm tốt, dung mạo tốt, chỉ có vì cái tính cách cứ thờ ơ lãnh đạm không lạnh không nóng này mà đã làm lỡ bao nhiêu việc tốt! Năm đó nếu cô biết nịnh bợ lấy lòng nữ phó một chút thì với tài năng đó chắc đã học thật nhanh rồi thi đậu đầu bảng, chắc đã vào Loan Nghi ti làm Nữ quan ngự tiền mài mực trải giấy dâng tấu chương cho Thánh thượng. Ở gần thiên tử là một bước lên trời, đáng lẽ cô đã có thể như thế, đâu đến nỗi vẫn phải vật lộn với nghèo khó, lăn lộn với chúng tôi thế này? Nay may mắn gặp được một hai vị quý nhân, cô chớ có dễ dàng bỏ lỡ!"
"Công danh phú quý tự có thiên ý." Cố Uyên lắc đầu, "Thà rằng chính trực mà thiếu thốn, chứ không khuất tất để dư thừa."
Giọng nàng tuy vẫn chỉ ôn hòa như nước chảy mây trôi, hai người kia đều nghe ra ý từ chối, bèn liếc nhau một cái, không nói gì thêm nữa. Nghe tiếng mõ canh hai ngoài đường đã vang lên, Hứa Tịch thu dọn mấy củ ấu, trở về vách của minh. Lý Thanh trằn trọc một lát rồi cũng liền thiếp đi, trước khi ngủ còn lẩm bẩm nhắc Cố Uyên: "Ừ thì chính trực không khuất tất, nhưng cô cũng đừng quá hao tâm tổn sức, mùi đèn dầu xông mũi mà cũng dễ hại mắt."
Cố Uyên đáp một tiếng, quay đầu thấy Lý Thanh đã ngủ say lập tức, thấy buồn cười trong bụng. Nàng đặt bút xuống tới gần giường đắp chăn cho Lý Thanh, rồi lại ngồi xuống cầm bút chép sách. Nét chữ vẫn ngay ngắn như đúc khuôn, nhưng tay nàng đưa bút càng lúc càng chậm.
Nếu năm đó nàng đỗ đạt — không nói đến phúc phần được xuất sĩ vào Loan Nghi ti, nàng chỉ cần cái danh Cử nhân mà thôi - thế cũng đã đủ miễn thuế cho cả nhà rồi. Và nàng còn có thể đến học đường dạy học, thù lao đó đã có thể chia sẻ gánh vác cả gia đình, phụ thân nàng đã không phải lao lực mà mất sớm, mẫu thân nàng cũng không khổ cực lao lực như vậy, ngay cả đệ đệ Cố Dương cũng có thể sớm được học hành tu dưỡng. Mỗi đêm khuya, nghĩ đến đây, lòng Cố Uyên lại đau âm ỉ.
Chỉ tiếc người đời không biết lúc rằng năm đó nữ phó coi trọng nàng không phải vì văn chương hay tài học của nàng, mà là vì khuôn mặt này của nàng — Cố Uyên cắn môi, tự giễu cười thầm cay đắng. Nàng vẫn nhớ nỗi chấn động và cảm giác bị vũ nhục sục sôi lên trong lòng khi nghe những lời đó. Cố Uyên, năm ấy mới mười lăm mười sáu tuổi, chưa từng nghĩ rằng nữ nhân có quyền thế cũng có thể ỷ thế hiếp đáp nữ nhân khác yếu thế hơn mình. Nàng gần như tháo chạy khỏi căn phòng đó, từ ngày đó không dám bước chân đến học đường, ngay cả đến khi vị nữ phó đó rời vị trí. Thời gian thoi đưa, cho đến khi phụ thân nàng qua đời, nàng thay cha gánh vác gia đình, chăm mẹ nuôi em.
Trải qua chuyện ấy, nàng vốn đã sắc sảo lại càng nhạy cảm với ánh mắt và động cơ của người khác đối với mình. Vị Lâm Cửu nương kia tuy cử chỉ hào phóng và thái độ cởi mở, nhưng sự tán thưởng chỉ là ở khóe miệng, và giọng điệu tuy thân thiết nhưng nghe nghĩ kỹ lại chỉ là hời hợt. Cố Uyên nhìn ra, Lâm Cửu nương tuy là trông như chị cả, nhưng tất cả sự chú ý thì lại đều dồn vào vị xưng Thập Nhất kia, dường như chỉ có Thập Nhất mới có thể đưa ra quyết định một cách chân chính. Ngay cả hạ nhân đi theo, tuy là vâng mệnh của Lâm Cửu nương, nhưng thực chất luôn nhìn về phía người tên Thập Nhất.
Mà cái vị Lâm Thập Nhất này...
Cái tên này nổi lên trong lòng nàng, ngòi bút của Cố Uyên dừng lại một chút: thiếu nữ đó còn trẻ, thế mà đã có bản lĩnh giấu kín tâm tư. Thế nhưng, mỗi khi Cố Uyên như có như không đưa mắt nhìn sang, đều sẽ chạm phải một đôi mắt đang lặng lẽ nhìn mình.
Chưa từng có ai nhìn Cố Uyên với ánh mắt như vậy. Hàng mi dài khẽ rủ, che giấu tâm tư chủ nhân của đôi mắt, một ánh nhìn vừa bình thản đạm nhiên lại vừa như tìm tòi dò xét; để đến khi Cố Uyên không nhịn được mà nhìn kỹ lại, mới phát hiện đôi mắt đen láy trong veo cỡ nào chăm chú, như thể trong ấy chỉ có hình bóng của mình. Rõ ràng đó chỉ là một thiếu nữ mười ba mười bốn tuổi thôi mà, nhưng đôi mắt đó khiến bài văn nhẩm trong lòng mà Cố Uyên vốn định viết một mạch - cũng như chữ nàng lúc này - có nét loạn rồi.
Dù sao đi nữa, rốt cuộc cũng chỉ là duyên uống một chén trà, ăn một bữa cơm, luận một bài văn với một người xa lạ tình cờ gặp gỡ. Cố Uyên ngẩn người một lúc, nhìn tờ giấy viết hỏng của mình, bật cười. Nàng xé đi trang đó, bỏ sang một bên, nhúng bút vào mực, lại viết liên tục hơn một canh giờ nữa, đến gần canh ba mới dừng tay vì mỏi mệt, lên giường ngả lưng.
Sự mỏi mệt còn kỳ diệu hơn cả thuốc an thần, Cố Uyên ngủ một mạch đến sáng, khi tỉnh dậy đã thấy Lý Thanh một thân xiêm y chỉnh tề, đứng trước tấm gương đồng cũ rích trên bàn. Lý Thanh nhìn qua nhìn lại, thấy Cố Uyên đã dậy, vừa chải tóc vừa nói: "Trong nồi còn nước nóng cho cô đấy, mau mau rửa mặt rồi theo bản cô nương ra phố tìm quý nhân thôi?"
Cố Uyên ừ hữ đáp một tiếng, vừa buộc xong vạt áo đã nghe thấy tiếng ồn ào ngoài cửa. Nghe thấy tiếng Hứa Tịch tranh luận vài câu, hình như tức giận lắm, giọng nói cao vút lên: "Cái gì mà trước giờ Ngọ hôm nay phải dọn đi?! Dù cho ông không lấy tiền nhà, nhưng đường đột thế này thì chúng tôi biết đi đâu? Trên đời nào có chủ nhà ức hiếp người khác quá đáng như vậy, thật là vô lý!"
—— Hết chương 3 ——
Nhà đài bình: Cố Uyên là chị Hậu đặc biệt nhất trong mấy bộ cổ ngẫu cung đình đài chiếu tới giờ. Vì chị Uyên chỉ nghèo, chỉ khổ, chỉ là người thường không có thế tộc quan bái cửu khanh chống lưng nhưng khí chất và cốt cách của chỉ thì sang xịn mịn không thua ai và là nữ cường hàng riêu (chỉ cường xém ngang chồng chỉ) :v