[Duyên Gái] Mặt Trăng Yêu Thương Mặt Trời - Âu Dương Lam Ca
Mặt Trăng Yêu Thương Mặt Trời [14]
histoires cachées dans le brouillard - những câu chuyện ẩn trong sương mù
Mùa xuân, Năm 1957.Chúng ta đâu thể nào biết được, khi nào rồi sẽ gặp lại?Cuộc đời này luôn ẩn chứa rất nhiều bất ngờ, những điều kì diệu luôn hiện hữu xung quanh, nhưng lại có mấy ai có thể dừng lại chỉ một vài phút để nhận ra thứ nhiệm màu nhỏ nhoi đó giữa cuộc sống cứ mãi chạy theo dòng thời gian hối hả.Rất nhiều rất nhiều người luôn đi về phía trước, họ chưa từng dừng lại, chưa từng nghỉ ngơi để cảm nhận được những thứ đang tồn tại quanh họ. Con người trên thế giới này luôn mong ước những điều cao cả lớn lao ở tương lai, nhưng họ nào biết được đôi khi điều họ mong mỏi chỉ ở đây, ở ngay bên cạnh mình. Nhưng bản thân họ lại không hề nhận ra, nên chẳng biết trân trọng để rồi mất đi thứ hằng khao khát theo đuổi.Còn tôi?Tôi không giống họ. Từ lâu tôi đã tự nhận thức được dường như bản thân luôn hụt lại một nhịp chậm hơn so với mọi thứ. Tôi vẫn thường cảm nhận mình luôn trễ lại so với dòng chảy của cuộc sống này, luôn phải vật lộn để đuổi kịp thời thế đang thay đổi điên cuồng đến nghiêng trời lệch đất.Đối với nhưng kẻ bị cuốn vào guồng quay bận rộn của nhịp sống nơi thành phố hoa lệ này thì điều đó chắc chắn là một nhược điểm chết người. Nhưng họ nào biết? Họ sẽ không bao giờ có được những cảm xúc chỉ dành cho những tâm hồn lạc lỏng giữa thế giới rộng lớn.Và cũng chính những nhược điểm ấy lại biến thành ưu điểm của riêng những "kẻ bị bỏ lại". Điều đó cho họ có cơ hội để cảm nhận những điều kì diệu nhỏ nhặt trong cuộc sống, cơ hội để nhận ra những thứ mà bản thân đã vô tình bỏ lỡ ở một thời điểm nào đó và kịp thời sửa chữa nó, cơ hội để chiêm ngưỡng bức tranh xã hội sinh động đang diễn ra xung quanh. Không cần phải vội vã, không cần phải chạy theo, chỉ thong thả ung dung mà tận hưởng món quà tạo hóa mang tới.Ở thời điểm nào đó khi thế giới đột ngột lấy đi của bạn một điều vô cùng quý giá và bạn cảm thấy cả trời đất như sụp đổ trước mắt mình. Nhưng vào một ngày của sau này rồi tạo hóa sẽ trả lại cho bạn sự bù đắp còn đáng giá hơn gấp trăm lần.Mười năm, tâm hồn tôi đã bị che phủ bởi tầng tầng lớp lớp mây mù xám xịt, cho dù cố gắng xua đi cũng chẳng thể chạm tới tận cùng nơi sâu nhất trong biển mây vô tận dày đặc đen kịt ấy. Và rồi chỉ bằng một ánh mắt tha thiết, một nụ cười dịu dàng, những thứ không có hình dạng tưởng chừng không bao giờ có thể làm tổn thương bất cứ ai, nay lại đủ sức nặng để đập tan đi bóng tối nơi trái tim tôi, xua tan lớp mây mù bao phủ nơi tâm hồn tôi. Một lần nữa chính đôi mắt và nụ cười đó đã cứu rỗi linh hồn tôi.Hay nói đúng hơn là một người phụ nữ, người đã kéo tay tôi chạy về phía mặt trời.Không! Cô ấy mới là mặt trời, một mặt trời ấm áp bằng lòng vĩnh viễn nắm lấy tay của tôi.Tôi vẫn còn nhớ rất rõ, đêm ấy, Ngài đã theo tôi về nhà. Trong căn hộ áp mái nhỏ, chúng tôi ở đối diện nhau khi Ngài ngồi thoải mái trên ghế sô-pha bọc da sờn cũ và tôi chiếm lấy cái ghế đẩu nhỏ vừa mua mấy tháng trước. Đôi tay Ngài ôm lấy ly trà âm ấm mà tôi đã pha trong khi tôi cúi đầu lặng lẽ nhấm nháp nửa thanh Sô-cô-la ngọt lịm với một nửa còn lại vẫn bọc trong giấy gói. Khi ấy chúng tôi chỉ im lặng ngồi bên cạnh nhau, không ai nói một lời, tận hưởng sự hiện diện của nhau trong không gian yên tĩnh ấm áp mà căn hộ nhỏ mang lại.Qua khóe mắt tôi có thể thấy được rất nhiều cảm xúc khác nhau trên gương mặt mà tôi chưa bao giờ dám và cũng không thể nào quên. Tôi dõi theo khi Ngài lặng lẽ đưa mắt nhìn quanh căn hộ của mình, đôi khi ánh mắt sâu lắng ấy lại chợt khựng lại ở nơi nào đó trong phòng nhưng nhanh chóng lại lướt qua. Sau cùng tôi thấy nụ cười hiện ra trên môi Ngài, một nụ cười vừa có phần nhẹ nhõm lại pha lẫn chút hài lòng. Trong lòng tôi thầm nghĩ có lẽ Ngài nhẹ lòng vì hoàn cảnh của tôi không quá khổ cực như Ngài lo sợ và hài lòng vì tôi có thể tự mình ổn định đời sống ở nơi Paris xô bồ phức tạp này.Tôi mừng thầm trong lòng, khoảng thời gian dài đằng đẳng vẫn không thể khiến sự hiểu biết mà tôi dành cho Ngài suy giảm, tôi vẫn thấu hiểu được tâm tư của Ngài rõ ràng như mười năm trước.Sau một khoảng thời gian gần như sắp chết chìm trong sự tĩnh lặng bối rối, rốt cuộc Ngài cũng đã mở lời bắt chuyện với tôi. Tôi vẫn nhớ Ngài đã hỏi về cuộc sống của tôi và cả về sức khoẻ của tôi. Tôi có phần ngượng ngùng đáp lại từng câu hỏi của Ngài, lúc đó tôi vẫn cảm thấy ngại vì từ lâu tôi đã không còn chia sẻ về bản thân mình với người khác nữa, kể cả với Điền.Và rồi đột ngột Ngài trầm ngâm một lúc lâu, ánh mắt có vẻ tò mò nhưng cũng có phần cẩn thận nhìn tôi. Đắn đo hồi lâu Ngài mới mở lời hỏi về quãng thời gian qua của tôi. Khi ấy giống như được dội một xô nước lạnh giữa ngày hè oi ả, tôi liền cất giọng đáp lại, ban đầu có chút e dè vì người trong lòng đang ở trước mặt tôi, nhưng sau đó tâm trạng của tôi giống như trở về nhiều năm trước, tôi chậm rãi kể lại tường tận cuộc hành trình dài vô định của mình.Bắt đầu với những ngày tháng sau khi Ngài rời đi, đến nguyên nhân tại sao tôi lại đột ngột bỏ chạy khỏi đất nước. Thời gian dài vô tận trên tàu vượt biển với ngừng con sóng cuồn cuộn đập ầm ầm vào sườn tàu, những cơn bão lớn giữa biển cả mênh mông. Ấn tượng khi lần đầu tiên đặt chân đến đất Pháp ở cảng Le Vieux-Port, quãng đường xa xôi không biết ngày đêm trên chuyến xe lửa từ Marseille tới Paris. Đoạn thời gian khó khăn lúc đầu khi tìm một công việc, những đêm mùa thu thiếu thốn tiền bạc và vật chất phải trải qua với khoai tây nghiền cùng đậu đóng hộp. Ngày mừng rỡ hạnh phúc vì gặp được Duy Văn và có một công việc được trả lương hậu hĩnh. Sau cùng là những tháng ngày bận rộn ngập trong giấy tờ và bản soạn thảo, rong rủi trên phố vào những đêm tăng ca muộn tới tận khuya.Tôi cũng không quên kể với Ngài về Điền và Duy Văn, những người bạn, người anh và là ân nhân của cuộc đời mình. Kể về việc Điền đã giúp đỡ tôi hết mình như thế nào, đồng hành bên cạnh ủng hộ và động viên tôi như thế nào. Và rồi cách tôi dần coi Điền như anh trai của mình như thế nào, cách mà anh dần dần rời đi để rồi đổi lại là lúc tôi có thể tự đứng vững trên đôi chân của mình trong cuộc sống mới.Khi câu chuyện của tôi kết thúc, tôi ngồi co ro trên ghế, âm thầm giấu đi hơi thở hổn hển của mình, rụt rè đưa mắt quan sát thái độ của Ngài. Cái áo len dày dặn kín đáo cũng không đủ để xua đi hoàn toàn cái lạnh khắc nghiệt của Paris khi ấy, làm cho cơ thể tôi thỉnh thoảng lại run rẩy vì lạnh.Chúng tôi im lặng ở bên cạnh nhau, chìm trong không gian của nhau, chỉ có những hơi thở khẽ khàng ngân nga. Thế giới này có nhiều câu chuyện kể đều được diễn đạt bằng những lời nói, có lúc chỉ trong chốc lát, có khi lại kéo dài dằn dặt. Mọi người thông qua trao đổi bằng câu từ để hiểu được một người khác, nhưng điều này lại khác biệt giữa chúng tôi.Có lẽ vì đã quá thấu hiểu? Hay là quá quen thuộc về đối phương chăng? Có lẽ giời phút này trong lòng đều có rất nhiều rất nhiều điều để nói, để kể cho nhau nghe, nhưng cổ họng nghẹn cứng, tâm trí mơ màng lại không biết phải sắp xếp những câu chữ rối tung trong đầu như thế nào để có thể diễn đạt ra bằng lời một cách mạch lạc mà không gây khó chịu cho người trước mặt. Bởi vì nhỡ đâu chỉ cần một chút bối rối để cảm xúc trong lòng vượt qua hạn mức nguy hiểm liền có thể để mình để lộ ra những lời lẽ không nên và không được phép thốt ra lời.Tôi biết khi ấy trong tâm tư Ngài có rất nhiều điều muốn nói với tôi, có nhiều câu muốn hỏi tôi nhưng Ngài lại chưa từng lên tiếng. Tôi biết chứ! Vì tôi cũng như vậy mà.Muôn vàn câu hỏi, muôn vàn thắc mắc dần dần trào lên các khoang trống trong tâm trí và trái tim, tôi có cảm giác lòng mình bị lấp đầy, ngột ngạt, khó thở vô cùng. Những câu hỏi tại sao, tại sao luôn lờn vờn lặp đi lặp lại hàng trăm lần trong đầu, rất muốn có được câu trả lời thỏa đáng cho từng cái một. Nhưng sau cùng tôi đã không để thứ cảm giác đó chiếm lấy mình, tôi đã hạ gục nó, để nó trôi đi theo những câu chuyện cũ mà không bao giờ được nhắc đến nữa. Bây giờ tôi chỉ cần quay lại đây, tận hưởng khoảnh khắc này. Không cần ai phải nói, không cần người nào cất lời, chỉ lặng lẽ bên cạnh nhau, cảm nhận tâm trạng của nhau, cảm nhận tâm hồn của nhau. Quan trọng, cảm nhận sự hiện diện của nhau sau quãng thời gian mười năm xa cách.Và rồi trong giây phút ấy, chúng tôi như trở lại với cảm xúc của những năm ấy. Trở lại những năm chỉ có ngài Hoàng và cô thợ làm vườn tuổi hai mươi.Khi đó, trái tim tôi bỗng đập thình thịch run rẩy khi nhìn thấy ánh mắt của Ngài. Nó khó xử, ẩn nhẫn, và rồi biến thành kiên định.Không do dự, không vòng vo và vô cùng thẳng thắn, Ngài đã cất giọng hỏi tôi với một sự e dè mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy ở Ngài.Ngài hỏi, liệu tôi có thể chuyển đến ở cùng Ngài không?Tôi vẫn còn nhớ rõ tâm trạng của mình khi đó, bất ngờ, bối rối và ngỡ ngàng. Tôi ngồi chết trân ở ghế, đôi mắt tròn xoe dao động nhìn Ngài, cổ họng cứng đờ không thể thốt nên lời. Có phải Ngài vừa đưa ra một lời đề nghị cho tôi không? Có phải Ngài vừa mời tôi đến sống cùng Ngài không? Hay là do đầu óc tôi quá mù quáng và mộng mị nên nghe nhầm ý Ngài mất rồi?Cảm giác lúc đó của tôi như thế nào nhỉ?Khó tả lắm!Một chút bồi hồi xen kẽ ngậm ngùi xúc động, một chút phấn khích phân lẫn sung sướng khôn xiết. Tôi có cảm giác như một vầng thái dương rực rỡ rọi vào trong căm hầm tăm tối của mình, làm bừng sáng cả tâm hồn mình.Tôi đã im lặng rất lâu, nhưng Ngài chưa từng lên tiếng thúc ép tôi, chưa từng cố tạo cho tôi một sự áp lực nặng nề nào. Ngài vẫn kiên nhẫn chờ đợi câu trả lời của tôi. Tôi đã cố gắng nhưng vẫn không thể kìm nén được dòng hơi nóng xộc lên lan trên mắt và hai má mình, sóng mũi cũng cay cay. Tôi nặng nề hít vào một làn khí lạnh, rồi mạnh mẽ thở ra bằng miệng với hai bên má căng phồng âm ấm, một làn khói trắng nhỏ được tạo thành tụ lại trước miệng khi tôi thổi ra trong hơi lạnh.Khi đó, hai mắt long lanh nước với tâm trạng nghẹn ngào, tôi rung động nhìn về phía Ngài.Tôi gật đầu.Theo sau là những tiếng thút thích khe khẽ và hàng nước mắt nóng hổi rơi xuống tận cằm.Và lúc đó, tôi nhìn thấy một tia sáng hy vọng loé lên trong đôi mắt óng ánh và nụ cười dịu dàng mà tôi hằng yêu thương dần hiện ra.
Paris - Cuối thu, năm 1957.Kể từ ngày hôm đó, cuộc đời tôi lại lật sang một trang giấy khác, trang giấy trống trơn đang đợi để được tô vẽ bằng những câu chữ chất chứa những cảm xúc sẽ không bao giờ được nói thành lời.Tôi không còn có thể đếm được quãng thời gian cả cuộc đời tôi đã lật qua bao nhiêu trang giấy, lật qua bao nhiêu cuốn sổ hằng sâu chi chít chữ viết. Bước đi từ một cô gái ở độ tuổi thanh xuân với hai bàn tay trắng, trải qua những cung bậc cảm xúc như con sóng nhấp nhô, sống trong những sự kiện đã làm thay đổi cả thế kỉ, cho đến tận lúc này đã rèn dũa tâm hồn tôi trở nên kiên cường và điềm tĩnh để đối mặt với một thế giới không có màu hồng.Suốt những năm tháng đầy rẫy phong sương ấy, thế giới chuyển mình, thời cuộc thay đổi, rất nhiều con người đã không còn giữ được những lý tưởng của bản thân. Riêng bản thân tôi dù rằng đã có những khác biệt trong tư tưởng và nhân cách giữa thời niên thiếu và độ tuổi cuối xuân thì của mình, nhưng ở đâu đó nơi sâu thẳm trong tâm hồn mình, có một mối liên kết mạnh mẽ vẫn vẹn nguyên như giây phút ban đầu của nó.Phần tình cảm mà tôi dành cho người phụ nữ tôi gặp dưới đêm trăng bạc nơi Đà-Lạt khi ấy, người con gái mà tôi sẽ vĩnh viễn không bao giờ có thể cùng đứng kề vai dưới ánh mặt trời tỏa sáng, vẫn chưa bao giờ thay đổi. Nó đơn giản, sâu lắng, nhẹ nhàng, miên man và da diết, phần yêu thương được âm thầm vung đắp bằng cả trái tim suốt cuộc đời.Kể từ sau đêm hôm ấy, tôi đã quyết định quãng đời còn lại của bản thân không còn muốn rời xa người phụ nữ quý giá đã có được trái tim của tôi nữa! Tôi từng bất lực bỏ lỡ những năm tháng được ở bên cạnh người mình yêu thương, bây giờ tôi sẽ không bao giờ buông tay nữa, tôi sẽ nắm giữ thật chặt lấy cơ hội thứ hai kì diệu này mà tạo hóa đã ban cho mình.Sau cái đêm tình cờ và nhận được lời đề nghị ấy, không lâu sau Ngài trở về lại Chabrignac nhưng chúng tôi đã có được cách thức liên lạc của nhau. Chúng tôi đã bàn bạc và Ngài đồng ý cho tôi khoảng thời gian ba tháng để thu xếp cuộc sống của mình rồi tôi có thể chuyển đến thị trấn theo địa chỉ đã được ghi lại. Những ngày tháng ấy phải nói là ôi thôi! Thật khủng khiếp!Mỗi một ngày tôi đều bận đến bù đầu, khi đó vừa hay toà soạn đang vào giai đoạn bận bịu nhất cả năm để tập trung vào kì Giáng Sinh vài tháng sắp tới. Khối lượng công việc tăng lên gấp ba-bốn lần, trong mấy tháng đó tôi gần như bị vắt cạn kiệt về thể chất và trí óc. Cả ngày đều cắm mặt ở toà soạn từ sáng sớm cho tới tận tối mù tối mịt, thậm chí có nhiều đêm tôi còn không về nhà mà chấp nhận ngủ lại luôn trong cơ quan. Thực ra khi ấy tôi chỉ muốn hoàn thành tất cả công việc còn dang dở của mình để có thời gian mà thu dọn chuyển về Chabrignac càng sớm càng tốt.Tôi không muốn để Ngài phải đợi tôi nữa.Nhưng thật khó khăn, mọi thứ không hề dễ dàng như tôi đã từng tưởng. Cứ như thế, vốn dĩ tôi muốn tiến hành càng nhanh càng tốt, nhưng cuối cùng lại bị kéo dài hết tận hai tháng!Khi mùa cao điểm trôi đi, rốt cuộc công việc mà tôi phụ trách ở toà soạn đã hoàn tất, tôi nhớ mình đã vô cùng tự tin cầm trên tay lá thư xin nghỉ việc bước vào văn phòng rồi dõng dạc đặt xuống phía trước tấm bảng tên Raphael.F.Dubois của tổng biên tập, khi đó biểu cảm trên gương mặt người đàn ông độ tuổi bốn mươi đầy vẻ ngạc nhiên và sốc, ngược lại tôi chỉ cảm thấy nhẹ nhõm hệt như gánh nặng trên vai đã được trút bỏ.Sau khi nhận được lời chấp thuận nghỉ việc, tôi đã có thể yên tâm bắt đầu thu dọn căn hộ của mình. Bán hết những đồ nội thất còn mới và đem quyên góp số còn lại cho nhà tình thương và những nơi cần thiết, sơn phết sửa sang lại vài chỗ ẩm mốc của giấy dán tường ố màu trong quãng thời gian mà tôi đã thuê. Đóng gói tất cả đồ đạc linh tinh cũng được một đống thùng giấy lớn chất đầy cả phòng khách nhỏ, hơn một nửa số đó đều bị bỏ đi và số ít khác tặng lại cho bạn bè và đồng nghiệp. Đống báo giấy cùng tạp chí cũ mà tôi thường dùng để tìm cảm hứng và tra cứu thông tin chất cao như núi trong góc phòng nơi từng để cái giường của Điền cũng được dọn sạch, phân loại và mang tới cơ sở thu rác.Vào một buổi tối nào đó, tôi đã từng đứng giữa khu vực mở vốn là phòng khách lúc trước, tôi đã đứng rất lâu và đưa mắt qua khắp căn hộ đã trống trơn không còn đồ đạc và đồ nội thất. Khi ấy trong lòng tôi chất chứa rất nhiều cảm xúc.Và rồi chỉ còn lại một việc cuối cùng mà bấy lâu tôi vẫn canh cánh, điều đó như một cái gai mọc ngược mà mỗi khi nghĩ tới trong lòng tôi lại ngày một áy náy khôn nguôi. Nói lời tạm biệt với bạn bè của tôi.Ngày mà thùng đồ đạc cuối cùng trong căn hộ được dọn đi, tôi đã mời vợ chồng Điền và Duy Văn cùng ra ngoài ăn cơm, và lý do tôi đưa ra cũng vô cùng ngẫu hứng là để gặp mặt ăn uống vì quá cực khổ bận bịu trong những tháng qua. Và rồi cả hai đều vui vẻ đồng ý, họ chẳng mảy may nghi ngờ về mục đích phía sau của tôi.Buổi tối đó chúng tôi đã chọn đến một nhà hàng quen thuộc, De La Forêt-de-séquoias (Rừng gỗ đỏ) nằm nép mình ở con phố nhỏ có nhiều nhà hàng và quán bar không quá xa nhà thờ Cathédrale Notre-Dame (Nhà thờ Đức Bà), nơi này luôn thuộc khu vực nhộn nhịp các hoạt động khi về đêm của quận Hôtel-de-Ville. Thỉnh thoảng cả ba chúng tôi đều thường dạo phố và ăn uống ở đây, dần dà nơi này đã trở thành đại bản doanh của những cuộc say quên lối về giữa những người bạn quá phấn khởi khi có điều gì đó đáng để ăn mừng.Bình thường tôi luôn là người có mặt sớm nhất cả nhóm, đến nhà hàng và nhận bàn cũng là việc làm quen thuộc do tôi phụ trách. Khoảnh khắc vừa bước qua cánh cửa kính mờ đục vì sương tối, tôi đã khá choáng ngợp bởi sự đông đúc của nhà hàng, không gian trước mặt tôi chật kín người là người ngồi san sát xen kẽ vào nhau, bàn đôi hay bàn đơn thậm chí cả bàn dài cũng được đặt chỗ đầy ắp. Phút chốc tôi mới chợt nhớ ra hôm ấy là thứ bảy, ngày tụ tập dành cho bạn bè ưa thích của người Paris, hèn gì nhà hàng lại nhộn nhịp như vậy!Vào những ngày trong tuần nhà hàng thường không đông khách như vậy, dù vẫn tấp nập kẻ ra người vào vì thức ăn ngon miệng với các loại rượu chất lượng cao cùng sự phục vụ chu đáo. Sàn ván tối màu, trần gỗ thấp hơi cũ, những bức tường xung quanh đều có những mảng lộ ra của gạch nung màu cam cháy và rất nhiều phần vữa trắng bị trát sơ sài giống như chưa được hoàn thiện. Bàn tròn và ghế có lưng tựa được bố trí và sắp xếp một cách chen chúc xen kẽ kỳ lạ nhưng lại có một quy luật trật tự của riêng nó. Nhìn tổng quan diện tích nhỏ nhắn của nhà hàng đối với người lần đầu tiên đến chắc chắn sẽ khá ngạc nhiên vì không nghĩ nó có thể phục vụ một số lượng khách hàng đông đảo như vậy, hơn nữa bây giờ còn chẳng phải mùa cao điểm của lễ hội. Ấn tượng đầu tiên khi đi qua cửa sẽ có cảm giác hệt như đang bước vào một nhà hàng thời những năm 1930 xưa cũ cổ điển.Tôi được một người bồi bàn hướng dẫn và đi theo anh ta tiến về phía sau nhà hàng. Cố gắng luồn lách qua dòng người ngồi chật cứng, tôi theo người bồi bàn đi sâu vào trong, bước lên trên những cầu thang chật hẹp cũ kĩ, mỗi bước chân của tôi khi dẫm lên làm cho từng bậc thang bằng gỗ cứ phát ra âm thanh cọt kẹt vui nhộn. Sau một hồi tôi cũng đã được yên vị ở cái bàn mà chúng tôi đã đặt trước đó, người bồi bàn lịch sự nhận đơn hàng gọi món và đồ uống của tôi rồi rời đi để thông báo với nhà bếp.Đây là nơi quen thuộc ưa thích của cả nhóm, và có những tháng chúng tôi từng đóng đô ở đây hằng đêm. Chỗ ngồi của chúng tôi nằm ở trên một gác lửng, với sàn được lát bằng những tấm gỗ thông lớn sẫm màu có những đường gân chìm chạy dài theo chiều dọc và bốn đinh tán lớn ở mỗi hai đầu. Bên trên là trần nhà thấp chỉ dư một khoảng nhỏ nếu như đang đứng thẳng người cũng được lót bằng gỗ ván. Gác lửng được che chắn an toàn bởi một lan can gỗ với những cột đỡ hình trụ tròn đơn giản kéo dài xuống hết cả cầu thang nhỏ hẹp dạng hộp ngay bên cạnh. Một chiếc bàn tròn nhỏ được phủ khăn dệt vải bố họa tiết caro vuông màu trắng và đỏ đặt ở giữa, bày trí bên trên đó là những chiếc đĩa sứ trắng và hai bên là bộ dao và nĩa bằng bạc sáng bóng lấp lánh, tất cả đều mang phong cách kiểu Bắc Âu cổ điển. Xung quanh kê vài chiếc ghế bốn chân cao có tựa lưng bằng gỗ bách và được lót nệm bông màu đỏ rượu phía trên mặt ghế. Hiện tại đã gần vào mùa Giáng Sinh nên khắp mọi nơi trong thành phố đều được bày trí theo mùa lễ, nhà hàng này cũng không khác biệt. Xung quanh gác lửng nhỏ ở chỗ ngồi của chúng tôi được chất đầy những hộp quà rỗng được gói đẹp mắt bằng giấy gói đầy màu sắc sặc sỡ và ruy băng hoặc nơ bướm, các bức tường sau lưng và lan can kéo dài tới cuối tay vịn cầu thang treo kín những dải dây Tầm Gửi và cành lá thông được tết thành dãy dài đính kèm theo đó là những quả cầu trang trí tròn màu đỏ rực rỡ và vàng hoàng gia treo lủng lẳng trên các tàng lá. Có rất nhiều dây kim tuyến lấp lánh cùng dây đèn cổ tích móc trên thành lan can và các bức tường, những ngọn đèn để bàn thắp thủ công và nến trắng được đặt khắp nơi cùng tỏa ra một ánh sáng màu vàng ấm áp chiếu sáng cho cả cái gác nhỏ. Không gian mở phía dưới nhà hàng cũng chìm trong những món quà trang trí và vòng Nguyệt Quế màu xanh tươi tốt cùng hoa Trạng Nguyên đỏ quyến rũ, nến và đèn được bày trí khắp mọi ngóc ngách, trong một góc của nhà hàng, nơi giao nhau giữa hai bước tường vẫn đầy những mảng gạch cam lộ ra không được trát vữa có một cây thông cỡ vừa đã được trang trí hoành tráng và dựng ở nơi đó khiến cho không khí trong nhà hàng vốn dĩ đã rất ấm cúng lại càng có thêm hơi thở Giáng Sinh hơn.Cả không gian nhỏ đông đúc của nhà hàng vang lên những tiếng người cười nói sôi nổi phấn khích, đôi lúc còn có phần ồn ào và huyên náo. Tiếng dao nĩa khua khoắn va vào đĩa tạo nên âm thanh lẻng kẻng chói tai, tiếng chuông cửa đinh đan reo lên cứ sau vài phút, tiếng bàn và ghế gỗ bị dịch chuyển kéo lê trên sàn gỗ phiến tối màu kêu cọt kẹt. Tất cả những âm thanh này gộp chung lại tạo nên một khung cảnh nhộn nhịp và ấm cúng nhưng cũng không thiếu sự náo nhiệt.Đột nhiên tôi lại cảm thấy may mắn vì có được một chỗ ngồi riêng để không phải chen chúc bên dưới không gian nhỏ hẹp chỉ vỏn vẹn mười lăm mét vuông hơn của nhà hàng, với số lượng người khủng khiếp như vậy nếu như buộc phải ngồi ở một bàn nào trong số đó thì chắc chắn chúng tôi bắt buộc phải chen chúc với rất nhiều con người ở dưới kia. Sở dĩ chúng tôi có được chỗ ngồi tốt và đắc địa như vậy do vốn là khách quen của nhà hàng, cùng với một chút quan hệ thân thiết giữa cô vợ Céline của Điền và ông chủ trung niên lịch thiệp mà sau cùng chúng tôi cũng được ông ấy để dành cái bàn đặc biệt này cho riêng cả nhóm. Mỗi khi có dịp ghé qua thì chỉ cần dùng cái tên Wapiti (Nai sừng tấm) để tìm bàn thì ngay lập tức sẽ có được chỗ ngồi dù bàn này trước đó đã có người khác đặt chỗ.Không biết vì tôi đến quá sớm, sớm hơn thời gian mà cả nhóm thường hẹn nhau trước kia hay là do tôi quá lo lắng vì điều sắp tới mà tôi cần phải nói với bạn bè của mình khiến tôi cứ bồn chồn nhìn theo hướng cầu thang, đôi lúc lại đứng dậy nhìn xuống không gian bên dưới về phía cửa chính. Nhưng chẳng kịp đợi nỗi lo lắng của tôi dần biến thành sự hoảng loạn hay thứ gì đó khác, những người bạn của tôi đã đi lên từ cầu thang bị che khuất bởi đồ trang trí. Nhìn những người bạn cười nói vui vẻ trong lòng tôi hiện lên cảm giác ngạc nhiên, vì những người bạn của tôi chưa bao giờ đi đúng thời gian đã hẹn nhưng hôm nay lại đến rất đúng giờ, thậm chí còn sớm hơn vài phút. Không để tâm trạng thấp thỏm xâm chiếm tâm trí mình, sau đó tôi cùng ba người bạn của mình... Không, phải là bốn người mới đúng! Vì giờ đây đã có thêm một người nữa gia nhập vào nhóm Nai Sừng Tấm của chúng tôi, người vợ xinh đẹp với đôi mắt xanh biếc như đại dương và mái tóc vàng hoe sáng ngời của Duy Văn, cô Charlotte Alba Rousseau. Cả năm người chúng tôi cùng ngồi xuống vây quanh bàn tròn nhỏ bắt đầu tất bật gọi món ăn cùng đồ uống.Chúng tôi đã gọi rất nhiều thứ, đa số là món Pháp và nửa còn lại là món Ý cùng đồ ăn kiểu Hoa kỳ. Thức ăn ngon lành nóng hổi cứ liên tục được phục vụ không ngừng từ những đầu bếp lâu năm của nhà hàng, hào phóng gọi nhiều chai rượu sâm-panh và rượu vang đỏ, thậm chí tôi còn đặt một phần ăn Giáng Sinh điển hình gồm gà tây nhồi nguyên con nướng cùng cà chua, chanh vàng lát cùng với cây hương thảo.Cả nhóm vừa ăn vừa trò chuyện vô cùng vui vẻ và phấn khích, mọi người đều nói về những câu chuyện thường ngày của họ ở chỗ làm hoặc ở nhà. Không khí dễ chịu đến mức có những phút tôi gần như quên mất cả mục đích chính ban đầu của mình.Nhấp một ngụm rượu đỏ có vị chan chát còn vương lại nơi đầu lưỡi. Tôi bình thản khoanh tay dựa lưng vào ghế lặng lẽ quan sát những người bạn của mình. Vợ chồng Duy Văn cùng vợ chồng Điền đang rôm rả cười nói qua lại, thỉnh thoảng còn bày ra những ngôn ngữ cơ thể để diễn đạt cho câu chuyện của bản thân. Tôi lia mắt về phía Điền và Céline, thầm thở dài nhẹ nhõm vì cử chỉ vuốt ve lưng một cách âu yếm mà anh dành cho vợ đã cho tôi nhận thấy rằng lúc này hai người đều rất viên mãn với tình yêu của họ.Kế đó tôi lại đưa mắt qua Charlotte cùng Duy Văn rồi im lặng theo dõi họ. Thực sự lúc đầu khi đưa ra quyết định của mình, bản thân tôi có chút không yên tâm về những người bạn của mình, Điền thì đỡ một chút, nhưng đâu đó tôi vẫn còn nỗi lo, đặc biệt là về Duy Văn. Vốn dĩ anh chàng trong vài năm từ quen biết đến làm bạn vẫn luôn độc thân, với công việc đặc thù lại thường đi sớm về khuya một mình, suốt ngày chả thấy có lấy một bóng hồng nào bên cạnh. Lúc đầu tôi khá lo cho Duy Văn, dù gì anh cũng gần giữa hàng bốn rồi, nói theo kiểu của tôi là đã "quá lứa lỡ thì" rồi, thế mà anh vẫn chưa kết hôn. Nhưng mọi việc đâu nhưng tôi tưởng tượng thái quá, chỉ mới vài tháng trước thôi chúng tôi đã nhận được thông báo kết hôn của Duy Văn và lễ cưới của anh với Charlotte diễn ra vô cùng hoàn hảo. Sau đó Duy văn mới nói cho chúng tôi biết rằng anh và vợ đã hẹn hò được gần hai năm rồi, chẳng qua họ chỉ muốn giữ điều đó làm bí mật của riêng họ nên mới im lặng không nói. Vậy mà anh chàng này làm cho tôi và Điền cứ lo lắng cho anh mãi!Duy Văn là người rất có khiếu hài hước, còn Charlotte thì lại rất hướng ngoại và thích nói chuyện cười đùa, tôi chợt nhận ra hai người họ quả thực rất hợp nhau. Người khác nhìn vào đều có cùng một suy nghĩ rằng dường như họ đã định sẵn sinh ra là để dành cho nhau rồi! Cuộc sống hôn nhân của cặp vợ chồng mới cưới dường như luôn tràn ngập trong niềm vui và tiếng cười và đang vô cùng hạnh phúc.Cuối cùng trong lòng tôi đã cảm thấy nhẹ nhõm, hai người bạn của tôi đã tìm được tình yêu và gia đình của họ, với sự hạnh phúc luôn bủa vây xung quanh hai cặp đôi định mệnh.Rốt cuộc tôi cũng có thể yên tâm, có lẽ đã đến lúc đến lượt tôi được phép đuổi theo tình cảm của bản thân mình rồi.Khi mọi người đã đến chặng cuối của việc đánh chén bữa tối thịnh soạn, sau cùng tôi cũng có đủ can đảm để bắt đầu câu chuyện của mình.Khi ấy tôi đã nói ra mục đích chính của mình với tâm trạng vô cùng bình thản."Em đã nhận lời của một người, không lâu nữa em sẽ chuyển về Chabrignac".Khoảnh khắc đó bầu không khí vui vẻ đột nhiên im bặt, không còn ai nói thêm gì nữa, âm thanh duy nhất lúc đó là tiếng dao nĩa bạc va chạm vào nhau vọng lên từ bên dưới phòng sảnh.Cả Điền và Duy Văn đều nhìn tôi chằm chằm trong khi hai cô vợ chỉ bày ra biểu cảm ngơ ngác và khó hiểu. Thực ra trong lòng tôi lúc này cảm thấy có chút căng thẳng, không khí xung quanh bất thình lình trở nên ngột ngạt vô cùng, nhưng tôi vẫn giữ vững sự kiên định trên mặt mình và giấu đi nỗi bồn chồn xuống bụng.Và rồi sau khi giằng co bằng một sự căng thẳng vô hình, cuối cùng Duy Văn cũng cất giọng nói chuyện với tôi. Anh hỏi rằng tôi đã quyết định kỹ càng rồi sao và tôi chỉ gật đầu một cách chắc nịch, tôi nghe được trong giọng của anh có hơi không chắc chắn. Tiếp đó Điền lại hỏi một câu khiến tôi hơi nghẹn lời thản thốt. Anh hỏi tôi. "Lúc nãy em nói là đã nhận lời người ta, có phải là cô ấy không?". Tôi chợt có chút lắng động và dòng cảm xúc cứ ào ào dâng lên trong bụng khiến tôi trong phút chốc không biết phải trả lời anh như thế nào. Nhưng sau một lúc bình tâm lại, tôi đã có thể dõng dạc đáp lại anh bằng một câu khẳng định và cái gật đầu rất nghiêm túc. Tôi nhận thấy hai cô vợ và Duy Văn đều tò mò nhìn vào Điền khi anh hỏi câu đó, dường như rất muốn biết cô ấy được nhắc đến là ai mà lại có đủ sức nặng khiến tôi quyết định rời bỏ những gì mà tôi đã và đang có ở Paris để chuyển về sống tại một thị trấn nhỏ xa xôi hẻo lánh.Nhưng chỉ vài phút sau tôi đã thấy được ánh mắt bỗng chốc loé sáng của Duy Văn, dường như anh đã dần nhận ra cô gái có được sự chấp thuận của tôi. Tôi cũng không bất ngờ lắm, thú thật, trước nay tôi chưa từng kể với người khác về câu chuyện xung quanh mối quan hệ tình cảm của bản thân, ngoại trừ một mình Điền. Thậm chí đến cả những người bạn còn lại ở Việt Nam như Hải và Vân Thảo họ cũng không biết. Khoảng thời gian trên đất Pháp, quen biết rồi trở thành bạn bè thân thiết với Duy Văn tôi cũng không hề tâm sự về điều này nên anh cũng không hay biết. Kể cả Điền cũng chưa bao giờ nói về chuyện của tôi cho người khác, anh vẫn luôn giữ nó như một lời hứa bí mật giữa chúng tôi. Chỉ là có đôi khi chúng tôi ra ngoài ăn uống vui chơi, ngẫu nhiên có nhiều đêm uống hơi quá chén Điền mới thỉnh thoảng nhắc tới người trong lòng của tôi bằng những câu nói lấp lửng đầy ẩn ý, nhưng tuyệt nhiên anh chưa từng lỡ miệng nói ra tên của Ngài. Tôi nghĩ có lẽ là sau một quãng thời gian dài lắng nghe những lời nói lặp đi lặp lại ấy, Duy Văn đã chấp nối mọi thứ lại với nhau rồi dần dà đoán ra được ít nhiều sự thật của câu chuyện. Chỉ duy nhất một điều, rằng anh sẽ không bao giờ có thể biết được người đó là ai, hay tên của cô ấy.Chúng tôi tiếp tục ngồi vây quanh nhau trong sự ồn ào của nhà hàng nhưng lại im lặng một cách vô hình giữa mọi người với nhau. Tôi nhìn Điền cầm ly rượu trắng của anh chậm rãi uống từng ngụm nhỏ, gương mặt anh đầy suy tư làm cho tôi thấp thỏm. Tôi chợt giật mình khi nhận được một cái vỗ nhẹ nơi bờ vai từ Charlotte đang ngồi bên cạnh mình, cô nhoẻn miệng cười nhưng giọng lại pha lẫn chút buồn buồn "Chúng tôi sẽ nhớ cô lắm!". Mắt tôi bỗng nóng hổi và thấy đầu mũi cay cay. Tôi cũng sẽ nhớ cô và mọi người lắm, tôi đã nghĩ. Và tôi lại cố gắng nuốt xuống cục nghẹn nơi cổ vì không dám để sự xúc động đột ngột trào ra ngoài. Rồi kế đó Céline là người tiếp theo gửi lời nhắn cho tôi, cô ấy nói tôi giữ gìn sức khỏe và tự chăm sóc bản thân, rảnh rỗi đều có thể viết thư tâm sự với cô ấy. Ngay cả Duy Văn cũng bỗng chốc niềm nở trở lại và anh động viên ủng hộ tôi rất nhiệt tình, nhăn nhảu nhắc nhở tôi rằng không được phép quên đi bạn bè đang ở đây. Sau cùng, qua một hồi giữ im lặng với nhiều dòng suy nghĩ viết trên khuông mặt, Điền đã khẽ khàng mỉm cười hiền hoà thấy hiểu, chỉ để lại một câu mà cả đời này tôi sẽ không bao giờ có thể quên được. Anh nói, "Chúc cho em sẽ được hạnh phúc". Lời của anh như một đòn giáng cuối cùng đánh vào tuyến nước mắt của tôi, tôi không còn nhớ khi ấy mình đã khóc bao lâu nữa.Cứ như thế tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, nói lời tạm biệt bạn bè. Tôi thu dọn những món đồ cá nhân cuối cùng, bàn bạc trả lại căn hộ với vẻ nguyên sơ vốn có ban đầu cho người chủ nhà lâu năm, tôi sẵn sàng bỏ lại những thứ đã từng có, những thứ mà tôi gây dựng được giữa Paris hoa lệ, bỏ lại những người bạn đã cùng đồng hành suốt nhiều năm qua, bước lên chuyến xe lửa liên tỉnh với tấm vé nhỏ trên tay ghi rõ ràng những dòng chữ Limoges, Corrèze, Limousin. Địa điểm dừng chân cuối cùng trong hành trình của tôi. Ngày hôm đó là vào mùa tuyết đầu tiên rơi xuống thành phố, trắng xóa, đẹp đẽ nhưng mù mịt.
Chabrignac - Mùa đông, năm 1957.Thời gian sau đó tôi đã di chuyển qua rất nhiều trạm tàu và ngồi trên vô số chuyến xe đường dài, đi qua quãng hành trình vô cùng xa xôi, cuối cùng tôi đã tới được nơi cần đến. Chabrignac, Corrèze, vùng Limousin, thuộc miền Trung nước Pháp. Nơi này chỉ là một thị trấn nhỏ, rất nhỏ, đến mức hầu như không thể tìm kiếm được địa điểm này trên bất cứ tấm bản đồ chỉ đường thông dụng nào. Cư dân ở đây ít ỏi, hơi thưa thớt và hầu như họ chỉ chọn sinh sống trong khuông viên ngôi nhà và trang trại của mình, điều này khiến cho thị trấn khoát lên mình một vẻ cô quạnh bình lặng đến hiu hắt, ngoại trừ khu phố chính trung tâm chỉ nhộn nhịp vào những ngày họp chợ vào cuối tuần. Dẫu vậy con người nơi đây dù sống khá khép kín nhưng lại thân thiện và hoà nhã, họ sẵn sàng dang tay giúp đỡ nếu vô tình thấy người khác đang gặp sự cố bên đường. Tuy nhiên chuyện đó cũng không giúp cho thị trấn bớt đi vẻ quạnh quẻ đìu hiu, thỉnh thoảng chỉ có thể ngẫu nhiên bắt gặp một-hai người qua lại trên phố. Đến nỗi có thể nhận ra được từng cư dân khác nhau và nơi họ sống nếu vô tình chạm mặt họ đủ nhiều lần khi đi loanh quanh trong thị trấn. Có cảm giác thị trấn này gần như bị thời cuộc lãng quên giữa một đất nước đầy rẫy sự lãng mãn và quá nên thơ.Cũng chính tại thị trấn nhỏ bé yên bình này, cách Paris chừng bốn-năm trăm cây số, nơi mà nhiều năm qua Ngài đã chuyển về sinh sống, nơi có chốn để trở về của Ngài.Lâu đài Domaine de la Perche.Người ta hay nói trải nghiệm lần đầu tiên luôn để lại cho con người những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ, từ nhỏ tôi vốn vẫn luôn âm thầm lắc đầu ngán ngẩm vì niềm tin ngớ ngẩn không có cơ sở ấy. Cho tới khi gặp Ngài, tôi mới biết thì ra những gì người ta nói đều là thật đó! Họ chưa từng gạt tôi!Tôi vẫn nhớ như in, lần đầu tiên đứng trước cánh cổng sắt chia làm hai với một cửa lớn mở hai cánh và còn lại là cổng phụ đơn một cánh nhỏ hơn có phần vòm đá trên đầu, quả thực quá khiêm tốn so với địa thế của tài sản nằm phía sau nó. Nhìn xuyên qua cánh cổng mở ra một con đường ô-tô rộng chừng bốn-năm mét và dài ước chừng hơn hai mươi mét được rải một lớp sỏi vườn gọn gàng. Lấp ló không xa là hình dạng của toà nhà chính nằm ẩn mình khuất sau những bóng cây thân gỗ lớn với tán lá xum xuê che phủ một mảng sân rộng lớn.Khi ấy, đứng trước cánh cổng nhỏ nhắn đơn sơ với chỉ vỏn vẹn vài chiếc va-li để sơ xài dưới chân, tôi ngẩn ngơ quan sát một phần của tòa nhà chính rồi lại cúi đầu nhìn chằm chằm vào tấm bảng nhỏ được cố định ngay ngắn trên một cột đỡ của cổng phụ, những chữ viết bị bạc màu có phần bong tróc đi lớp thạch cao vì hứng chịu mưa và nắng, gần như không thể đọc được chữ nếu không ở khoảng cách đủ gần.Số 4, rue de la Basse Perche.Dòng chữ và số ấy về sau này tôi không còn có thể quên đi được nữa.Ngày hôm đó chính là ngày đầu tiên tôi chuyển đến. Khoảnh khắc đôi tay tôi hơi run rẩy vì hồi hộp mà không nhịn được ấn vài lần vào nút gọi chuông cửa, chỉ vài phút ngắn ngủi, ở phía xa trong lớp sương mỏng lơ lửng của tiết trời vào thu, bóng dáng thướt tha của Ngài dần dần hiện ra, trên người khoát lên chiếc váy kiểu Tây thanh lịch và mái tóc đen huyền được búi kiểu cách với nếp uốn xoăn lọn gọn gàng.Hình dáng Ngài xa xa rồi lại gần hơn, gần hơn nữa, cho đến khi người phụ nữ ấy không còn bị lớp sương trắng vây lấy.Tôi bên ngoài và Ngài ở trong, khoảng cách giữa chúng tôi chỉ cách nhau một cách cổng sắt đơn giản nhưng lại hệt như vẫn ở hai thế giới khác nhau. Giây phút này, chỉ cần cánh cổng mở ra và tôi bước vào, khi ấy chúng tôi không còn khoảng cách nữa, cũng không còn bị ngăn cách bởi thời gian nữa. Đêm hôm ấy Ngài đã nói lần này sẽ đợi tôi, và rồi khi tôi đến, Ngài đã ra đón tôi.Cuộc sống về sau này của tôi đều có thể diễn tả bằng những cụm từ vỏn vẹn, ấm áp, hài lòng, yên bình và hạnh phúc.Căn biệt thự của chúng tôi...À! Bây giờ tôi đã có thể gọi nơi này là của chúng tôi, giống như tôi từng ao ước trong tưởng tượng suốt cả đời, một nơi thực sự có thể thuộc về Ngài và tôi. Vào lần đầu tiên tôi trong trạng thái xúc động vào một lúc nào đó vô tình nói ra sự khẳng định ngu ngốc ấy và Ngài đã nghe được, khi đó Ngài không hề mở lời để sửa lại, chỉ tặng cho tôi một nụ cười như đã ngầm chấp nhận nó, về sau Ngài vẫn lặng lẽ nuông chiều cho phép tôi tiếp tục dùng những lời ấy để nói về chúng tôi.Biệt thự của chúng tôi nằm trên một đoạn sườn dốc thoải phía Bắc thị trấn, ở trên một nhánh của đường lớn Perche, cách trung tâm phố chính chỉ khoảng mười lăm phút đi bằng xe đạp. Phía sau khu vực dinh thự là một ngọn đồi nhỏ có cánh đồng trang trại rất lớn cũng là một phần tài sản đi kèm với lâu đài thuộc về sở hữu riêng tư của Ngài.Dọn vào dinh thự chỉ mới một thời gian rất ngắn, nhưng phải thú thực rằng có lẽ tôi đã yêu nơi này mất rồi...Biệt thự Anh Đào, nơi này giống như tên gọi của nó, yên tĩnh, nên thơ, và mang theo một vẻ đẹp ngây ngất thầm lặng giữa quang cảnh thiên nhiên an bình. Mái ngói nghiêng nghiêng cổ kính màu tro, tường gạch nâu xám ám dấu vết của thời gian, những khung cửa sổ gỗ thông với lớp sơn màu trắng sữa được trang trí bằng chậu hoa treo ở nơi bệ cửa. Xung quanh các góc tường là những khóm hoa Cẩm Tú Cầu hồng phấn, xanh trời và tím oải hương mọc thành cụm lớn dùng bức tường rêu phong làm giàn đỡ để vươn cao phát triển, khu vực sân trồng rất nhiều cây bụi lớn và cây bách luôn sinh trưởng mạnh mẽ dù đã vào đông.Toà lâu đài rất rộng lớn, có lẽ một phần tôi lại thích dùng tên gọi dinh thự hơn vì nó mang lại cảm giác ấm cúng và giảm bớt đi phần nào sự cô quạnh của nơi này. Cả gian nhà chính đều là nơi sinh hoạt thường ngày của Ngài, người hầu thì được bố trí ở nơi khác. Khi tôi đến, vốn dĩ tôi đã được sắp xếp cho một gian phòng nhỏ ở khu vực nhà phụ phía sau, giống như những người khác. Nhưng sau đó một quyết định đột ngột khiến cho tôi vô cùng bất ngờ khi nhận được thông báo, thì ra Ngài đã chọn cho tôi một căn phòng nhỏ tiện nghi và ấm áp hơn ở cuối hành lang trong toà nhà chính, nằm cùng dãy với thư viện và phòng làm việc, đặc biệt cách phòng ngủ lớn của Ngài chỉ bằng một góc cua ngắn qua hành lang. Tôi chợt hiểu ra rằng Ngài muốn tôi ở gần đó, không cần cách quá xa nữa.Dẫu vậy, tôi không đến đây để làm chủ nhân, mà tôi đã chọn đến để được làm chủ cuộc đời mình. Dường như khi đã đi qua một quãng đường vòng tròn lớn và gần trở lại nơi điểm bắt đầu, người ta vẫn thường muốn có lại những thứ năm xưa mà họ đã từng có. Tôi cũng vậy thôi, tôi đã đề nghị với Ngài, chọn một lần nữa được trở về là một thợ làm vườn, nhưng lần này tay nghề của tôi đã không còn nghiệp dư nữa!Trong dinh thự ngoại trừ Ngài và tôi, chỉ còn lại hai người hầu trẻ hơn và một người quản gia cũng gần trạc tuổi tôi.Hai cô hầu gái nhìn qua tầm khoảng hai mươi đến đầu ba mươi, một người thì nhiệt tình và vui tính, hơn nữa lại rất thích nói chuyện với mọi người, Élodie Chevrolet. Một Céleste Adorlee thì lại có vẻ trầm tĩnh hơn nhưng vô cùng tốt bụng, vả lại còn rất hào phóng, luôn sẵn sàng giúp đỡ mỗi khi được nhờ. Bọn họ một hướng ngoại và một hướng nội, hai tính cách khác biệt dường như luôn đối lập nhau nhưng họ lại thân thiết như chị em ruột thịt, một điều nữa rằng họ rất nghe lời và cực kì tận tụy với công việc. Nhưng nhắc đến sự trung thành tuyệt đối thì phải nói về người quản gia tinh tường, cậu con lai giữa hai dòng máu Việt-Pháp Renée Chastain-Nguyễn là một người thực sự vô cùng cẩn trọng. Ở anh toát lên một vẻ ổn trọng, nghiêm túc và tinh tế, một tay anh quản lý toàn bộ mọi chuyện lớn nhỏ trong dinh thự một cách ổn thoả, trật tự và nề nếp. Một điều nữa, Renée luôn dành một sự kính trọng tuyệt đối, sự chu đáo nhẹ nhàng và sự ân cần sâu sắc cho nữ chủ nhân của toà dinh thự này. Với những lời bàn tán xung quanh thị trấn và dường như bản thân tôi cũng có thể mơ hồ nhìn thấy mối quan tâm mà anh đặt vào Ngài, và có lẽ bấy lâu anh vẫn luôn yêu Ngài, giống như tôi.Nhưng khi tôi âm thầm nhìn vào Ngài, nhìn sự tương tác giữa Ngài và Renée, ngược lại tôi lại không cảm nhận được sự rung động tương tự mà Ngài dành cho anh. Chưa bao giờ có.Chúng tôi làm quen với nhau rất dễ dàng và nhanh chóng trở nên thân thiết, tôi đặc biệt thân với hai cô hầu nhỏ hơn, có lẽ do nhìn họ khiến tôi nhớ tới những cô gái trước kia ở cùng với tôi, chị Nhung, Hoàng Lan, bé Trang và Ngọc Huyền. Riêng về Renée thì tôi chỉ giữ mối quan hệ ở mức thân thiện và anh cũng có vẻ không có ý định muốn kết thân với tôi cho lắm! Ba người họ đều gọi tôi là Elaine, cái tên tiếng Pháp mà hai người bạn đã đặt cho tôi.Rồi thời gian trôi qua, cứ thế cuộc sống của tôi vẫn tiếp diễn, nhưng giờ đây nó đã tươi sáng hơn nhiều. Tôi quay lại trở thành người làm vườn, tất cả những cây cảnh sân vườn trong khu vực dinh thự đều do tôi phụ trách chăm sóc. Có lần tôi còn tự ý bày trí và vun trồng một vườn hoa hồng giống Red Master Lincoln, loại mà được trồng ở khách sạn La Palace năm ấy. Chỉ trong nửa tháng ngắn ngủi, tôi đã cải tạo khu vườn vốn trống trải đơn điệu trở thành một vườn hoa rực rỡ bằng rất nhiều loài hoa khác nhau, Cẩm Tú Cầu, hoa hồng Master Lincoln màu phấn nhạt, Tulip nhiều màu, Oải Hương tím và Lưu Ly xanh. Dù rằng đã bước vào mùa đông và có những loại hoa không thể nào phát triển nổi trong thời tiết khắc nghiệt này, nhưng những hạt giống vẫn sẽ được ủ trong đất màu mỡ, rồi vào mùa xuân chúng sẽ sinh trưởng và biến thành một vườn hoa rực rỡ hệt như trong chuyện cổ tích.Sinh hoạt thường nhật trong dinh thự cũng khá giản dị, ai làm việc người nấy, đôi lúc sẽ tụ tập nói chuyện thư giãn vào giờ nghỉ trưa. Ngài vẫn giống như năm xưa, đối xử với mỗi một người đều rất tốt và luôn công bằng, nhưng bản thân tôi lại nhận được sự ưu ái âm thầm từ Ngài nhiều hơn những người khác.Ở đây một thời gian sau tôi mới nhận ra một điều, mặc dù Ngài vẫn còn danh nghĩ là Hoàng hậu, nhưng tuyệt nhiên lại có rất ít người quen đến thăm. Nghe Élodie nói lần gần nhất cũng xấp xỉ nửa năm mới thấy có khách qua ghé thăm, vài lần ông Tỉnh trưởng cùng dân biểu địa phương cũng tới chào hỏi vì biết tin Ngài đã chuyển về đây sinh sống. Nói chuyện một hồi lâu tôi mới biết người có lần ghé tới nhiều nhất lại là ông Phạm Khắc Hoè. Céleste kể lại mỗi khi ông Hoè đến đều mang theo thư của ông Hoàng, những lúc đọc qua nội dung viết trong thư thì Ngài đều thở dài bất lực, bọn họ đoán có lẽ ông Hoàng lại ngỏ lời xin tiền từ Ngài lần nữa. Làm ở đây lâu họ cũng chẳng còn lạ gì chuyện ông ấy thỉnh thoảng gửi thư về, nhưng đại đa số nội dung đều có ý nhờ vợ chuyển tiền cho.Biết được chuyện này tôi cũng chẳng đưa ra bình luận gì, bởi tôi cũng y như họ thôi! Lần còn ở Việt Nam ông Hoàng cũng đã từng nhắn cho Ngài một lá thư y hệt, nói là hỏi thăm sức khoẻ và tình hình các con, thực chất là muốn xin tiền vợ. Khi ấy ông Hoàng còn đang vui vẻ ở cùng cô người tình Lý Lệ Hà quý giá của ông ấy xa tận bên Hồng-Công. Đó là bức thư đầu tiên sau nhiều tháng đi công tác không tin tức của ông Hoàng, cũng là bức thư đầu tiên mang theo nội dung đầy xấu hổ và hổ thẹn ấy.Dần dà tôi mới ngộ ra, không phải tự nhiên mà Ngài lại chọn chuyển về Chabrignac. Vùng này luôn tách biệt với thế giới, đường xá khó khăn, lại xa xôi hẻo lánh, từ thị trấn muốn tới thành phố gần nhất là Limoges cũng có cả trăm cây số. Nếu như không phải Ngài muốn thực sự có cuộc sống ẩn dật không màn chuyện đời, tận hưởng những tháng ngày bình yên, thì sao lại cố tình chọn một vùng thị trấn nhỏ cô quạnh biệt lập thế này?Mặc dù trước kia bản thân tôi chưa bao giờ là người thích sự cô quạnh đìu hiu của những nơi tách biệt, không hiểu có phải do con người ta khi có tuổi rồi thì tâm trạng và bản tính thường thay đổi hay không mà những suy nghĩ định kiến của tôi cũng không còn giống như trước nữa. Bây giờ, tuy có đôi khi lại có cảm giác mọi thứ xung quanh sao quá tĩnh lặng, nhưng tôi vẫn rất hài lòng với cuộc sống của mình hiện tại.Tại sao tôi lại không hài lòng? Có điều gì mà tôi còn mong mỏi hơn nữa ở đây? Tôi được ở một nơi tiện nghi nhất, có những người đủ thân thiết để trò chuyện, có một căn phòng nhỏ ấm cúng, và quan trọng nhất, đó là tôi được ở bên cạnh Ngài. Đây là cuộc sống mà tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để có được.Thế giới nhỏ nơi thị trấn đều bắt đầu từ rất sớm. Mỗi ngày tôi đều thức dậy từ khi mặt trời còn chưa sáng và đi ngủ khi trời đã gần nửa đêm. Chăm sóc và cắt tỉa cho khu vườn, dọn dẹp nhà kho chứa dụng cụ làm vườn luôn ngổn ngang sau một ngày làm việc dài. Khi ấy Ngài luôn thức dậy chỉ sau tôi không lâu, Ngài sẽ ngồi trên ghế bành trước lò sưởi ấm áp ở phòng khách, đọc báo và thưởng thức cà phê buổi sáng nóng hổi cùng bánh mì, đôi lúc chỉ là trà và bánh quy.Vào những ngày thời tiết đẹp, Ngài sẽ ra ngồi ở bàn sân vườn uống trà và chăm chú đọc một cuốn sách văn học hoặc thơ ca, có khi là sách chủ đề về tiểu sử danh nhân thế giới hay chỉ là quyển những câu chuyện ngụ ngôn hài hước. Ở gần đó, tôi vẫn chăm chú vào công việc đắp đất đang làm dang dở nhưng có vài giây phút tôi sẽ lén đưa mắt quan sát Ngài, để rồi mỉm cười vui vẻ khi thấy dáng vẻ Ngài đang cười khúc khích vì một câu chuyện nào đó từ cuốn sách trong tay.Những hôm có gió nhẹ khi tâm trạng Ngài đầy cảm hứng và thư thái, Ngài sẽ cùng tôi ra vườn trồng hoa, tỉa lá, chăm sóc cho vườn hồng và bón phân cho chúng. Tôi biết được Ngài yêu hoa cỏ cây lá, nhưng Ngài lại đặc biệt yêu thích vườn hoa hồng mà tôi đã cải tạo. Và lúc như vậy tôi luôn để cho trí tưởng tượng phong phú của mình bay xa, tôi nghĩ rằng những khi Ngài nhìn vào khu vườn ấy thì có thể nào Ngài sẽ ngẫu nhiên nhớ lại cái ngày lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau không? Có lẽ tôi đã suy nghĩ quá nhiều rồi.Ngài còn có những sở thích rất thi vị và nên thơ, có ngày vào buổi sáng hoặc buổi trưa Ngài đều ngồi cắm hoa bên cửa sổ với những khóm hoa được hái từ vườn rồi bày trí chúng khắp nhà. Vào buổi tối tiết trời mát mẻ, Ngài sẽ đột nhiên nổi hứng và say mê chơi dương cầm, còn tôi sẽ lặng lẽ ngồi ở ghế bành gần đó, lắng nghe những âm thanh thanh thoát khi phím đàn rung lên, giai điệu du dương vang vọng trong dinh thự tạo nên một cảm giác vô cùng lãng mạn, thư thái bên cạnh lò sưởi ấm áp. Có vài khoảnh khắc nhất định Ngài sẽ quay lại nhìn tôi và mỉm cười hạnh phúc, những ngón tay tinh tế vẫn ung dung lướt trên phím đàn bằng gỗ màu trắng và đen đã dần trở nên quen thuộc.Tôi và Ngài thường cùng nhau đi vào trung tâm thị trấn để mua sắm hàng hoá và thực phẩm dự trữ đủ cho một tuần. Cả hai tản bộ khắp con phố chính trung tâm, nơi có nhiều cửa hàng nhộn nhịp vào ngày cuối tuần, Ngài sẽ vô tư ghé vào một cửa hàng ngẫu nhiên và chọn mua một thứ gì đó thấy thích. Có lần Ngài đã mua cho tôi một chiếc khăn choàng đan màu vàng nổi bật, vì thấy thời tiết ngày một lạnh hơn và sợ tôi mặc không đủ ấm. Hai người phụ nữ chúng tôi thong thả dạo qua con phố, Ngài thì cầm theo những túi giấy từ cửa hàng quần áo hay tiệm gia dụng trong khi tôi xách những thứ nặng hơn như túi rau quả và trái cây. Thông thường những việc mua sắm lặt vặt này có thể để cho Élodie và Céleste phụ trách, nhưng có đôi lúc Ngài lại ngẫu hứng muốn làm. Ngài nói thích sự thoải mái khi được đi dạo và tự tay chọn mua đồ. Khi đã có đủ những thứ cần thiết, đã đến lúc để quay về dinh thự, và những khi ấy tôi sẽ chở Ngài trên chiếc xe đạp cũ luôn được cất trong nhà kho. Ngài ngồi nghiêng một bên ở phía sau, một tay giữ túi đồ, tay còn lại dịu dàng vòng qua ôm lấy eo tôi, khẽ áp gò má vào lưng tôi, chỉ cách một lớp áo dày.Mỗi ngày thứ bảy cuối tuần, Ngài sẽ dẫn tôi ra phía sau dinh thự, nơi có trang trại rộng lớn nằm dưới chân ngọn đồi xa xa. Chúng tôi làm việc trên cánh đồng từ sáng sớm, cuộn tròn những bó rơm cuối từ vụ thu hoạch cuối cùng vào mùa thu, chăm sóc và kiểm tra số lượng nông sản thu được rồi chuyển tất cả vào nhà kho lớn được xây dựng gần đó. Cuối buổi chiều, sau một ngày làm việc vất vả ở trang trại, chúng tôi mới có được thời gian cho riêng mình. Tôi và Ngài thong thả tản bộ dọc theo dãy hàng rào gỗ màu trắng nơi rìa trang trại, đưa mắt nhìn về phía đàn bò gần trăm con đang được thả rong để ăn cỏ nơi cánh đồng úa tàn vì cái lạnh của mùa đông. Và rồi lúc đó Ngài đã nói rằng nếu cả đời còn lại có được cuộc sống bình yên như thế này thì còn gì bằng. Trong lòng tôi âm thầm tán thành với suy nghĩ ấy.Vào những ngày nghỉ lễ, các con của Ngài đều trở về thăm và ở lại, đôi lúc có đủ tất cả, đôi lúc chỉ hai-ba người về. Các Mệ không sống ở thị trấn, có thể khi còn nhỏ thì là vậy nhưng hiện tại họ đều học tập và làm việc ở Paris, mỗi khi có dịp họ đều sẽ trở về thị trấn thăm và vây quần bên mẹ. Thú thật, tôi chưa từng nhìn thấy quá trình họ khôn lớn, cũng chưa từng chăm sóc cho họ khi còn niên thiếu, người duy nhất tôi gặp trước đó là Mệ Bảo Long lúc ấy vẫn còn được ẵm trên tay. Tôi chưa từng xây dựng được mối quan hệ tốt với họ trước kia, nhưng từ khi tôi chuyển vào, mỗi khi có dịp về chơi họ đều tỏ ra rất thiện cảm với tôi.Chỉ không lâu sau chúng tôi đã rất thân thiết, cả mấy đứa đều gọi tôi là cô Quyên, duy chỉ một mình Mệ Phương Dung lại gọi tôi là Elaine, và tôi cũng gần gũi với cô bé nhất, đến mức hệt như người thân ruột thịt.Nói thật tôi cũng không chắc tại sao Mệ Phương Dung lại gọi tôi bằng cái tên khác so với anh chị em của con bé, nhưng sau này tôi đã có được câu trả lời từ chính mối liên kết giữa chúng tôi. Con bé một phần vì quen với giao tiếp phương Tây được giáo dục từ nhỏ, phần còn lại vì con bé muốn gần gũi hơn, thân thiết hơn với tôi. Phương Dung muốn có một người bạn để con bé có thể tâm sự về nhiều điều thầm kín mà không thể kể với người khác, một người bạn để trò chuyện ngoài anh chị em và mẹ con bé. Tôi đã làm như vậy, tôi đã cho con bé những gì mà nó mong muốn, mỗi khi về chơi và cần người để trò chuyện, tôi sẽ đặt mình vào vị trí một người bạn, im lặng và lắng nghe tâm sự của con bé mà không một lời phán xét.Mấy đứa trẻ đều dành cho tôi một sự tôn trọng nhất định, tôi thương yêu cả năm đứa và chúng cũng đều vô cùng yêu thương tôi. Khi có cơ hội chúng đều vây quanh kể cho tôi nghe về cuộc sống, công việc và chuyện học hành ở Paris. Đặc biệt có những đêm không ngủ được, Mệ Phương Dung sẽ lẻn vào phòng tìm tôi, chúng tôi sẽ ngồi trên giường tâm sự những bí mật chất chứa của cô bé mới vào tuổi mười lăm niên thiếu cho đến khi cô bé quá mệt rồi ngủ quên luôn bên cạnh, khi ấy tôi đều chỉ nhẹ nhàng kéo mền cho con bé và mình rồi cũng đi ngủ. Dần dần cả năm đứa nhỏ đều thích bám theo tôi, nói chuyện và chơi cùng tôi, thỉnh thoảng chúng tôi sẽ chạy quanh ngoài vườn chơi đá bóng hay một trò nào đó khác, trong khi Ngài chỉ ngồi dưới bóng mát quan sát và cười vui vẻ. Cho đến một ngày, khi chúng tôi tụ lại vây quanh trước lò sưởi vào một đêm trời đông lạnh giá, bọn trẻ đã nói với tôi rằng chúng cảm ơn tôi, khi ấy tôi cũng chợt khựng lại vì ngạc nhiên trong lòng. Và rồi chúng nói, "Chúng con thấy được mẹ đang vui vẻ và hạnh phúc hơn nhiều khi có cô ở đây!". Bọn trẻ nào thấy được những dòng nước mắt chảy dài vì cảm động và cảm giác ấm áp nơi ngực trái hiện ra rõ ràng trên khuông mặt được chôn sâu dưới tấm mền bông dày cộm của tôi.Sau đó tôi và Ngài đã cùng nhau đi khắp nơi, mặc dù thích sự ẩn dật yên bình, nhưng nếu có dịp Ngài đều sẽ đi du ngoạn thăm thú nhiều nơi khác nhau, và trong tất cả những lần đó Ngài đều luôn đưa tôi đi cùng. Vào những lúc ngẫu nhiên, Ngài và tôi sẽ đến Paris và ghé thăm các Mệ. Có những lần ghé thăm với thời gian dài hơn một ngày, hai chúng tôi sẽ ở lại căn chung lớn của Ngài ở Neuilly, nằm trên đại lộ Ópera. Đây cũng là một tài sản riêng do ông Nguyễn Hữu Hào đã mua cho Ngài.Thỉnh thoảng có đôi lần Ngài để tôi lại ở chung cư và ghé thăm ông Hoàng nếu biết tin ông ấy cũng đang ở trong thành phố cùng thời điểm đó. Cả hai vợ chồng sẽ cùng đi dạo, ăn tối và đi chơi ở Casino, mỗi lần như vậy có khi họ đều thắng được rất nhiều tiền, và ông Hoàng đều mua cho Ngài rất nhiều quà cùng quần áo. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy Ngài mặc những bộ váy áo đắt tiền cầu kỳ ấy, chúng luôn nằm im lìm ở một góc trong tủ. Sau đó tôi và Ngài sẽ trở về lại Chabrignac, tiếp tục để những tháng ngày bình dị yên tĩnh trôi qua.Ngẫu nhiên vào ngày không thể đoán trước, ông Hoàng đều sẽ trở về thăm Ngài ở đây. Nhưng ông ấy chỉ ở lại một đêm, nhiều nhất là hai đêm, sau đó liền rời đi ngay khi ăn xong bữa trưa. Sau đó cả mấy tháng trời cũng không có tin tức về, gần như cả nửa năm, nhưng tôi thấy Ngài lại chẳng có vẻ để tâm đến điều đó. Tôi thừa nhận, có vài lần bản thân đã thấy được lấp ló trong vạt áo của ông Hoàng là một phong bì ố màu dày cộm, tôi thừa biết rõ bên trong đó là cái gì, trong lòng lại dấy lên một cảm giác khó chịu. Cho đến khi nhìn thấy ông Hoàng bước lên chiếc xe vốn không có ở đó vào đêm hôm trước đang nổ sẵn máy trên đường ô-tô trước cửa, trên xe loáng thoáng một bóng người phụ nữ lạ có vẻ là người Pháp với mái tóc vàng óng cùng đôi mắt màu xanh biển. Giây phút ấy tôi liền biết rằng mình không nên nhìn nữa, cho đến khi tiếng động cơ gầm gừ của chiếc xe đã xa dần khỏi thính giác của tôi.
Paris - Mùa đông, năm 1962.Năm nay hình như khí lạnh tràn về hơi sớm hơn những năm trước, còn tới hơn ba tuần mới đến Giáng Sinh. Vào những lúc như thế này tôi lại có nhiều tâm sự hơn bao giờ hết. Mùa đông, có thể ở một đất nước phía bên kia đại dương như Việt Nam thì chẳng có gì nhiều ngoài sự lạnh cắt da cắt thịt của gió mùa. Nhưng ở bên đầu này của thế giới, mùa đông luôn là mùa mà rất nhiều người đều yêu thích.Đây là khoảng thời gian diễn ra rất nhiều câu chuyện tình yêu lãng mạn nhất, những sự kiện lung linh nhất, những phép màu kì diệu nhất. Người ta yêu thích mùa đông không phải vì nó đẹp, mà cũng có lẽ có một phần đúng. Người ta yêu nó vì những câu chuyện, những kỷ niệm, kí ức cũ gắn liền với mùa lễ hội tưng bừng, có mưa tuyết trắng xóa và đèn trang trí lấp lánh nhiệm màu cùng cây thông Giáng Sinh.Riêng tôi? Tôi cũng thích Giáng Sinh.Kỉ niệm hạnh phúc nhất cũng là mùa Giáng Sinh.Những năm này không biết là do thời tiết ngày càng khắc nghiệt hơn, hay là do khi còn trẻ tôi đã lao động quá cật lực mà tôi thấy sức khoẻ của mình không còn tốt như xưa nữa. Thể chất của tôi ngày một giảm, thỉnh thoảng tay chân có hiện tượng tê rần, hô hấp không đều, và tôi lại còn bị ho cực kì nhiều. Mùa hè còn đỡ, nếu như vào khi trời lạnh thì tình trạng càng kinh khủng hơn nữa. Đôi lúc tôi ho đến khản đặc cả giọng, nóng rát cả lồng ngực, lâu lâu còn bị lên cơn sốt nhẹ. Khi đó tôi nhớ Ngài đã vô cùng lo lắng cho tình trạng sức khoẻ của tôi, Ngài có từng mời bác sĩ đến khám cho tôi và ông ấy nói rằng tôi có triệu chứng của bệnh viêm phổi, nhưng các dấu hiệu chỉ là rất nhỏ, không quá đáng ngại nên ông ta chỉ kê đơn thuốc thông thường cho tôi.Những năm tiếp theo càng tồi tệ hơn, tình trạng của tôi không hề khả quan mà ngày càng nghiêm trọng thêm. Ban đầu tôi còn cố tình che giấu, nhưng dần dà tôi đã không thể giấu được các triệu chứng ngày một trở nặng của mình nữa. Khi ấy Ngài đã nhất quyết không cho tôi làm việc ở ngoài vườn và trang trại nữa, nói rằng công việc vất vả từ sáng đến tận tối mịt thực sự quá cực khổ. Ngài một mực căn dặn tôi nghỉ ngơi trong nhà chính, không cần phải lo lắng việc vườn tược và ngoài trang trại, những thứ đó sẽ có người khác phụ trách. Vậy là cuối cùng tôi cũng bị tước việc, mỗi ngày đều dưỡng bệnh trong nhà chính. Chỉ có điều bản thân tôi đã quen với chuyện tay chân nên cũng chẳng thể nào ngồi yên một chỗ, tôi đã phụ giúp các việc lặt vặt trong dinh, từ nấu ăn đến lau dọn, quét bụi, giặt giũ và một số việc vặt vãnh khác. Lúc đầu Ngài cũng có chút không hài lòng vì tôi cứ không chịu buông lỏng để mình được nghỉ ngơi nhiều hơn, nhưng thời gian sau Ngài cũng đành thở dài bất lực trước sự cứng đầu của tôi.Có rất nhiều ngày, vào lúc đã là đêm khuya, tôi đều bị ho và nghẹt thở, cơn ho dữ dội như những cú đánh dồn dập đập vào lồng ngực tôi và khiến cho hô hấp của tôi vô cùng khó khăn. Lúc đó đã là nửa đêm rồi, mọi người hầu khác đều đã đi ngủ từ lâu ở những dãy phòng bên toà nhà phụ trong khi phòng của tôi nằm tận cuối hành lang nhà chính, một khoảng cách quá xa không đủ để những âm thanh ngắt quãng làm gián đoạn giấc ngủ của họ, nên chẳng có ai thèm để ý đến những tràn ho sù sụ liên hồi của tôi.Rồi bỗng nhiên lần đó, cũng vào những ngày bị cơn ho nhức nhối hành hạ như thế này, cửa phòng của tôi đột nhiên lại mở ra và một luồng ánh sáng vàng ấm êm dịu hắt vào trong phòng. Cánh cửa kẽo kẹt hé mở rồi trong ánh nhìn lờ mờ vì cơn ho, tôi thấy Ngài chậm rãi bước vào phòng, và trên tay Ngài đang cầm theo một cái đĩa nhỏ đỡ lấy ly sứ bên trên có làn khói mờ mờ bốc lên bởi thứ được chứa bên trong.Ngài chậm rãi đi đến bên cạnh giường, nơi tôi đang nằm chật vật quằn quại vì khó chịu, Ngài nhẹ đặt cái đĩa ly lên bàn đầu giường rồi giật dây mở đèn ngủ ngay kế bên. Ánh dáng màu vàng nhẹ hắt vào khiến gương mặt phờ phạc của tôi hiện ra rõ ràng. Ngài nhẹ nhàng ngồi xuống giường rồi dịu dàng áp tay vào trán kiểm tra nhiệt độ của tôi, tôi vẫn nhớ lòng bàn tay mềm mại mát lạnh của Ngài áp vào vầng trán âm ấm của tôi đột nhiên khiến cho cơn khó chịu dường như đã dịu đi phần nào. Tôi nhìn Ngài lấy ly trà ở bên cạnh rồi đưa tới trước mặt mình, không dám bỏ lỡ nên tôi đã cố gắng chống người ngồi dậy dù lúc đó tôi cảm thấy cơ thể mình cực kì nặng và chỉ muốn ngã nằm xuống nệm. Tôi uống ly trà hệt như một người chết khát giữa sa mạc bằng từng ngụm lớn, trong chốc lát ly trà đã cạn đáy. Khi cơn ho gần như dễ chịu hẳn, tôi mới áy náy nhìn Ngài, tôi cảm thấy ngượng ngùng vì đã làm gián đoạn giấc ngủ của Ngài. Và rồi Ngài chỉ cười và trấn an tôi rằng chỉ vô tình giật mình giữa đêm, nghe thấy tiếng ho của tôi lại có chút không yên lòng, không muốn làm phiền những người khác nên đã pha cho tôi ly trà đen và ghé vào xem tình hình. Khi đó tôi không biết là do bản thân quá nhạy cảm hay căn bệnh khiến cho đầu óc trở nên mụ mị mà tôi đã không kiềm được cảm xúc của mình rồi nghẹn ngào thút thít.Kể từ đó, vào những đêm như vậy, Ngài đều sẽ đến, mang cho tôi trà và thuốc. Ngài sẽ ở lại, cả đêm ngồi bên cạnh chăm sóc và trông chừng tôi. Rồi sáng hôm sau, tôi sẽ nhìn thấy Ngài đang ngồi ngủ trên ghế bành lớn bên cạnh với cánh tay gác lên tay vịnh và đầu tựa vào.Đó chỉ là một câu chuyện cảm động ngắn trong hàng ngàn hàng vạn câu chuyện đẹp đẽ của cuộc đời kì diệu của tôi.Và có một kỉ niệm, một ký ức mà trong muôn vàn kiếp sau tôi vĩnh viễn vẫn muốn khắc ghi trong sâu thẳm nơi tâm hồn mình.Tôi còn nhớ lần đó cũng là vào những ngày trước Giáng Sinh. Mọi năm khi kì nghỉ Giáng Sinh bắt đầu, các Mệ sẽ về Chabrignac để đón lễ, nhưng năm nay vì muốn có một sự đổi khác mới mẻ, nên năm nay Ngài quyết định chọn lên Paris để trải qua kì nghỉ đông với các con. Chuyến đi này sẽ rất, rất khác. Lần này chúng tôi có dự định lưu lại Paris tầm cả tháng, lâu hơn rất nhiều so với chỉ vài ngày ở những chuyến đi trước đó. Chúng tôi đã đóng gói hành lý và khởi hành ngay trong đêm vì muốn rút ngắn thời gian, và lần này cũng chỉ có tôi cùng Ngài. Renée sẽ lái xe đưa chúng tôi đến trạm xe lửa ở thành phố Limoges, kế đó chúng tôi sẽ lên chuyến tàu chạy thẳng đến Paris. Dự tính quãng đường này cũng y hệt những lần trước, phải mất tới ba bốn ngày.Khi chúng tôi đặt chân trở lại Paris, lúc đó trời đã khá trễ, tôi và Ngài hơi đuối sức lỉnh kỉnh xách theo va-li ra khỏi nhà ga rồi bắt một chiếc ta-xi để trở về căn hộ trên đại lộ Ópera.Chúng tôi dành ngày đầu tiên để nghỉ ngơi đầy đủ lấy lại tinh thần. Mấy ngày tiếp theo đó chúng tôi bắt đầu thực hiện những mong muốn đã dự định trước đó, chúng tôi ghé thăm căn hộ của Mệ Bảo Long và Phương Liên, cả hai đều gần nơi chúng tôi ở chỉ ngay quận bên cạnh. Sau đó chúng tôi có hẹn gặp mặt Mệ Phương Mai cùng vị hôn phu người Ý Pietro vào ngay cuối tuần ấy. Cả hai chúng tôi cũng có cơ hội thăm nơi ở và cơ quan làm việc của Phương Dung, người hiện tại đang rất hài lòng về cuộc sống của mình.Sau khi nhìn thấy và chắc chắn đời sống của các con đã ổn định, khi ấy Ngài mới dám nghĩ tới những điều mong muốn nhỏ nhoi của bản thân mình. Thời gian ở Paris, chúng tôi đã làm được rất nhiều thứ, dĩ nhiên chỉ có hai người vì Ngài không muốn làm phiền đến các con.Ngài và tôi đã đi thăm thú rất nhiều nơi mới lạ và các địa danh nổi tiếng của thành phố. Từ tháp Eiffel biểu tượng hoành tráng đến Khải Hoàn Môn sừng sững tráng lệ, tham quan cung điện Versailles xa hoa lộng lẫy từng dành cho Hoàng gia Pháp, ghé thăm cung điện Luxembourg uy nghi cổ kính, đi dạo qua nhà thờ Notre-Dame lâu đời, dành thời gian chiêm ngưỡng các tác phẩm nghệ thuật trong bảo tàng Louvre, du thuyền và ngắm cảnh đêm bằng thuyền trên dòng sông Seine thơ mộng.Dường như thời gian là không đủ khi chúng tôi đi thăm thú các địa điểm trong thành phố. Từng nơi đi qua đều để lại cho tôi một cảm giác sững sờ choáng ngợp và thích thú. Thực ra trước kia khi còn sống ở Paris, tôi cũng đã từng rất nhiều lần dạo khắp nơi trong thành phố, mặc dù tôi đã không thể đến qua hết các địa danh nổi tiếng và chỉ ghé qua rất ít nơi trong số đó. Tôi vẫn nhớ rõ cảm giác say sưa khi lần đầu tiên chiêm ngưỡng những kiệt tác kiến trúc của thế giới. Nhưng bây giờ quay trở lại lần nữa, trong lòng tôi lại có một cảm xúc khác, mãn nguyện, xao xuyến, lâng lâng và mơ màng. Bởi vì trái tim tôi đang thấy rất hạnh phúc vì được cùng Ngài quay lại những nơi này, nơi mà trước kia chỉ có một mình tôi lẻ loi đứng giữa hàng ngàn con người xa lạ.Tôi và Ngài dường như luôn có một sự đồng điệu vô hình về tâm hồn, chúng tôi đã cùng nhau quay lại những nơi mà trước kia chúng tôi chỉ đi một mình. Có cây cầu cạnh dòng sông Seine Ngài từng một mình đi dạo, có chuyến tàu tôi đã tự ngồi chạy qua khắp các quận trung tâm, có con phố mua sắm sầm uất khi Ngài dạo chơi ở Paris, có quảng trường nơi tôi từng nhỏ bé đưa mắt ngước nhìn ngọn tháp Eiffel hiên ngang sừng sững. Tất cả những nơi đó đều có kỉ niệm của riêng chúng tôi, là nơi mà cả tôi lẫn Ngài từng đến một mình hay đi cùng một ai đó khác.Nhưng hiện tại chúng tôi đã có nhau.Một buổi chiều có mây xám phủ kín bầu trời, tôi và Ngài như thường lệ đi dạo trong thành phố. Chúng tôi đi mua sắm ở những cửa hàng trên đại lộ chính, sau đó cả hai cùng nhau tản bộ vào một trong những con phố cạnh bảo tàng Louvre.Rue de Rivoli là một con phố lớn, trên đường này có lối vào cửa sau của bảo tàng Louvre nên vì thế nơi này cũng nhanh chóng trở nên nổi tiếng nhờ vào danh tiếng của bảo tàng. Con phố trải dài thẳng tấp gần như thấy được đường chân trời phía xa, con lộ lớn bằng phẳng rộng rãi thoáng đãng, hai bên là dãy cửa hàng lâu đời và toà nhà cổ kính nằm san sát nhau kéo dài đến hết con đường. Vì đang bước vào mùa lễ Giáng Sinh nên nơi này cũng được khoát lên mình một bầu không khí đầy lễ hội, các hàng hiên bằng kính xanh với phần mái vòm cổ điển dựng dọc theo mặt tiền của các cửa tiệm được trang trí bằng những đoá hoa Trạng Nguyên đỏ rực và chuỗi dây lá thông xanh tươi tạo thành vòng lủng lẳng. Mỗi trụ đồng hồ điêu khắc tinh tế dựng ở khắp các ngã tư được quấn quanh bởi dây ruy băng màu đỏ trắng đính nhiều nơ bướm. Các trụ đèn được liên kết với nhau bằng dây ruy băng đỏ và trắng cùng chuỗi lá thông đính hoa đỏ. Cửa chính của các toà nhà và cửa tiệm treo đầy vòng Nguyệt Quế và cây Tầm Gửi. Rất nhiều dây chuông nhỏ treo khắp con đường sẽ kêu đinh đan leng keng khi có gió nhẹ thổi lướt qua. Bên dưới phố là dòng người qua lại tấp nập bằng xe cộ và xe điện hay chỉ đi bộ trên vỉa hè, tất cả những điều này hoà vào nhau tạo nên một quang cảnh đông đúc nhộn nhịp, thể hiện được sự sầm uất phồn hoa của thành phố. Đi dạo trên các vỉa hè được bày bàn và ghế bên dưới những hàng hiên kính, thỉnh thoảng tôi có thể bắt gặp nhiều người đàn ông hay phụ nữ có vẻ như là họa sĩ, nhà văn, thi sĩ hay nhạc sĩ đang ngồi thưởng thức trà chiều, hàn huyên trò chuyện và tìm nguồn cảm hứng để sáng tác. Các cửa tiệm đều đặn những đợt người ra vào không ngừng để mua sắm cho dịp lễ, tiếng người thu ngân sau quầy mừng rỡ chào tạm biệt khách, tiếng nhạc vui tươi từ các nhà hàng hay tiệm bánh kẹo vang vọng khắp phố. Mọi thứ đều cho thấy một bầu không khí Giáng Sinh đang sắp đến gần.Tôi cùng Ngài đi dọc theo con phố, ghé vào nhiều cửa hàng khách nhau và mua rất nhiều thứ, nhìn vào tôi có thể thấy được tất cả đều dùng cho lễ Giáng Sinh. Những vật dụng có màu sắc đỏ và xanh của mùa lễ, những món quà được gói rất tỉ mỉ đẹp mắt bằng giấy gói đầy họa tiết Tuần Lộc và cây thông đính kèm ruy băng nơ bướm vàng hoặc xanh lá. Cả buổi chiều chúng tôi đã phải xách theo rất nhiều túi lớn nhỏ đi hết cả con phố dài mấy trăm mét.Khi đã mua sắm xong, chúng tôi bắt buộc phải quay lại căn hộ để cất đồ vì không thể cứ mang theo cả đống túi đó đi khắp nơi được. Sau khi đã hoàn tất mọi thứ thì trời cũng đã chập chững tối, tia nắng cuối cùng cũng dần đổi chỗ cho những ánh sáng vàng của đèn đường trên phố.Vài ngày nay tôi âm thầm cảm thấy tình trạng của mình có vẻ càng nghiêm trọng. Trước đó khi mới đến Paris, Ngài đã mời một bác sĩ tư nhân đến khám cho tôi, tôi nhìn biểu hiện sa sầm nặng nề của ông ấy luôn hiện ra với cái nhíu mày chặt chẽ mà cũng bồn chồn theo. Sau khi khám qua một hồi lâu, cuối cùng ông ấy nói rằng từ các dấu hiệu của tôi cho thấy triệu chứng đã biến thành bệnh viêm phổi, và đã vào giai đoạn xấu. Bác sĩ chẩn đoán phổi của tôi đang dần suy kiệt, có tạp âm, âm thanh hô hấp đặc và nặng, bệnh trạng có thể chuyển biến nguy cấp bất cứ lúc nào. Hiện tại vẫn chưa có cách nào để chữa trị dứt căn bệnh này, bác sĩ chỉ có thể kê đơn thuốc để ức chế bệnh tình và kéo dài thời gian điều trị. Ban đầu khi biết về tình trạng trầm trọng của tôi, Ngài đều trông rất lo âu. Mỗi đêm khi tôi muốn vào bếp để lấy nước, vô tình đi ngang qua phòng của Ngài, tôi nhìn thấy trong phòng vẫn còn le lói ánh đèn lờ mờ. Khi tôi lấp ló nhìn qua khe cửa vẫn để mở một khoảng nhỏ, tôi thấy Ngài đang quỳ dưới sàn, bóng lưng đơn bạc thẳng tấp, một mực hướng về phía cây thánh giá nhỏ treo trên tường trong phòng ngủ. Ngài chấp tay trước ngực, ánh mắt lay động hướng về thánh giá, có vẻ như Ngài đang cầu nguyện. Lúc đó, tôi loáng thoáng nghe được lời khẩn cẩu run rẩy và ngắt quãng vì chất giọng nghẹn ngào của Ngài. Ngài cầu xin Chúa hãy ban phước cho tôi, giữ lấy bệnh tình của tôi đừng tồi tệ thêm nữa, nguyện tôi sẽ khoẻ mạnh. Ngài quỳ trước thánh giá với hai dòng nước mắt long lanh lặng lẽ rơi trên gò má."Thưa Chúa, xin người hãy rủ lòng thương xót! Xin người đừng mang em ấy rời xa con...".Khoảnh khắc ấy tôi không kiềm được những giọt nước mắt nóng hổi tuôn rơi theo mỗi lời khẩn cầu của Ngài.Mùa đông ở Paris năm nay đặc biệt vô cùng khắc nghiệt. Trời càng về đêm thì thời tiết càng lạnh hơn, lạnh đến mức độ chỉ cần đặt một ly nước trên cửa sổ và vài giây sau liền bị đóng băng, một máy sưởi công suất lớn lắp trong căn chung cư dường như là không đủ để làm ấm nơi này.Hôm ấy cũng là ngày cuối tuần, đêm đó Ngài và tôi đã quyết định đi ăn tối ở bên ngoài. Trời quá lạnh nên cả hai chúng tôi đều phải khoác rất nhiều lớp áo dày khi bước ra khỏi cửa chung cư. Đi trên phố, chúng tôi đã đón đợt tuyết rơi đầu tiên trong ngày, vào thời điểm này mỗi đêm đều có tuyết rơi kéo dài đến tận sáng sớm hôm sau.Chúng tôi trở lại con phố Rue de Rivoli hiện đang ngập trong ánh sáng lấp lánh rực rỡ của các dãy toà nhà hai bên đường. Chọn một nhà hàng tầm trung rồi tiến vào bên trong qua khung cửa gỗ ô kính vang lên leng keng bởi chiếc chuông treo ở ngay phía trên, tôi và Ngài được dẫn đến một bàn trống được xếp bên ngoài ban công trên tầng hai, từ trên này có thể ngắm được khung cảnh người xe nhộn nhịp bên dưới phố.Xung quanh nơi bàn của chúng tôi được trang trí đầy không khí Giáng Sinh với lá thông, hoa Trạng Nguyên, vòng Nguyệt Quế và những hộp quà đầy màu sắc. Trên chiếc bàn tròn cũng được bày trí vô cùng tinh tế bằng chân đế bạc kiểu cổ điển với bên trên là nến dài trắng đã được thắp. Một bầu không khí lãng mạn ấm cúng phủ xuống tôi và Ngài dù nơi cả hai đang ở không có mấy riêng tư cho lắm.Khác biệt với thường ngày, sẽ chọn mặc những bộ váy kiểu Tây của hãng Dior thanh lịch kiểu cách. Hôm nay thì lạ hơn, Ngài đã chọn mặc một bộ áo dài màu xanh lam nổi bật, chính là chiếc áo dài mà Ngài đã mặc khi tôi gặp lại Ngài ở nhà thờ Vincent de Paul tại Đà-Lạt nhiều năm trước. Mái tóc đen tuyền óng mượt được chải chuốt và búi gọn gàng ở sau gáy trông vô cùng sang trọng và cao quý. Đôi hoa tai và chuỗi vòng ngọc trai sáng bóng làm nổi bật nơi cổ mảnh mai của Ngài.Tôi không biết tại sao Ngài lại có hứng ăn mặc đầy Á Đông trong một ngày gần mùa lễ của phương Tây như thế này, nhưng thực sự trong lòng tôi lại rất thích nhìn thấy Ngài với hình dáng này. Người phụ nữ luôn quý phái, đài cát trong trái tim tôi.Ngược lại tôi chỉ ăn mặc đơn giản với quần Âu nâu hạt dẻ và áo sơ mi nữ màu ngà. Nhìn thoáng qua tôi và Ngài giống như hai con người ở hai thế giới khác biệt, nhưng lại vô hình hợp nhau đến kì lạ.Không giống như bữa tối thịnh soạn của tôi và những người bạn nhiều năm trước, Ngài và tôi đã gọi vài món ăn giản dị, những món Pháp điển hình mà bất cứ nhà hàng nào cũng có. Ngài chọn rượu vang đỏ và tôi chỉ lấy một ly nước ấm, vì sức khoẻ không còn cho phép cơ thể tôi tiếp nhận thứ đồ uống mạnh như thế nữa.Ngồi đối diện Ngài, trái tim tôi đập thình thịch liên hồi nơi lồng ngực vì rung động. Tôi muốn dùng từng giây từng phút để ghi nhớ khoảnh khắc quý báu này mãi mãi.Chúng tôi vui vẻ thưởng thức bữa tối ấm cúng, tận hưởng không gian lung linh và lắng nghe những âm thanh náo nhiệt bên dưới con phố cùng những bản nhạc Giáng Sinh vui tai ngân vang. Dù không có gì gọi là quá sang trọng, chỉ có bữa ăn đơn giản, một nhà hàng bình dị, nhưng đó chắc chắn là một buổi tối tuyệt vời nhất trong cả cuộc đời tôi.Sau khi dùng bữa tối, Ngài và tôi quyết định đi tản bộ một chút. Chúng tôi đi dạo khắp các con phố đông đúc nhộn nhịp về đêm gần đó, nhìn ngắm những ánh đèn trang trí lung linh dưới bầu trời đêm tuyết rơi lất phất. Tôi và Ngài ngồi trên xe điện băng qua các quận khác nhau và chiêm ngưỡng vẻ đẹp về đêm của thành phố. Cuối cùng chúng tôi quyết định dừng lại ở trước toà tháp Eiffel.Ngài và tôi đi dọc theo khu vực quảng trường rộng lớn, có rất nhiều người cũng đến đây vui chơi vào buổi tối. Những cặp đôi sánh vai nhau đi dạo, những đôi vợ chồng nắm tay âu yếm, các nhóm thanh thiếu niên vui vẻ cười đùa. Khung cảnh quảng trường quả thực rất sinh động và huyên náo.Sau khi tản bộ được một lúc, chúng tôi tìm được một chỗ ở góc xa và ngồi xuống, từ nơi này có thể quan sát toàn cảnh quảng trường rộng lớn bên dưới và toà tháp Eiffel trước mặt.Đưa mắt ngắm nhìn tháp Eiffel hùng vĩ được rọi sáng lấp lánh bằng những cụm đèn pha công suất lớn. Tôi biết Eiffel luôn mang một vẻ đẹp tráng lệ của nó, nhưng khi dưới trời đêm và tuyết trắng rơi lất phất, toà tháp lại có một vẻ đẹp lung linh và huyền bí như chính lịch sử của nó. Có rất nhiều cảm giác dâng lên trong lòng tôi lúc này, những cảm xúc mà tôi cũng không biết lý giải như thế nào vì chúng quá choáng ngợp, rung động và đầy ấp.Tôi hít vào những làn gió mát, khí lạnh tràn vào phổi khiến tôi không ngừng ho khù khụ, khản đặc cả giọng. Ngài ngồi bên cạnh cứ đưa tay vuốt dọc tấm lưng run rẩy vì ở trong thời tiết giá lạnh của tôi, muốn giúp làm dịu cơn ho của tôi. Lồng ngực tôi đau nhói, thắt chặt, mồ hôi lạnh ẩn hiện trên vầng trán lạnh buốt, những mảng đờm nhớp nháp nơi vòm họng, hô hấp nặng nhọc và ngắt quãng. Một hồi lâu sau khi cố gắng bình tĩnh và hít thở, các triệu chứng của tôi mới dịu bớt đi ít nhiều.Tôi và Ngài tiếp tục ngồi ở đó qua từng phút, im lặng bên cạnh nhau, chiêm ngưỡng toà công trình vĩ đại của thế giới và là biểu tượng lãng mạn của kinh đô ánh sáng.Rồi bỗng nhiên tôi nghe giọng Ngài cất lên giữa không gian rộng lớn."Ngày mai là sinh nhật của em rồi phải không?".Tôi quay qua nhìn Ngài, tròn mắt, mím môi hơi ngẫm nghĩ rồi gật gật đầu."Hình như là vậy, em cũng gần như quên mất!".Ngài khẽ nghiêng đầu nhìn tôi, biểu cảm có chút không hài lòng nhưng rồi rất nhanh bị thay thế bằng một nụ cười hiền hoà."Vậy năm nay em muốn có quà gì?".Tôi vờ suy nghĩ, sau đó lại khẽ cười tinh nghịch pha lẫn những tiếng ho nhẹ."Ở tuổi này mà vẫn còn được nhận quà hả? Nhưng em cũng không biết mình muốn gì nữa, vì em đã có tất cả rồi"."Không cần phải trả lời gấp vậy đâu, ta còn cần chuẩn bị nữa".Tôi cười khúc khích, hơi vuốt ngực để giảm bớt sự căng đầy của buồng phổi."Để xem nào?". Tôi híp mắt, như đang tính toán trong đầu, vài giây sau liền mở lời đáp lại. "Một chiếc khăn choàng mới thì sao?".Ngài nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên, và tôi thấy hình như Ngài đang có điều gì muốn hỏi, nhưng tôi ngay lập tức đoán được trước."Em rất thích cái khăn màu vàng đó, nhưng mà nó sờn hết rồi, lại còn có chỗ bị rách nữa!". Tôi bỉu môi giải thích.Ngài bật cười vì vẻ trẻ con của tôi, lắc đầu thích thú."Được rồi, ta cũng nhìn thấy giống như em nói".Ngài bình ổn lại, nhìn tôi với ánh mắt dịu dàng tha thiết."Vậy quyết định nhé? Một cái khăn choàng mới cho ngày sinh nhật và một món quà Giáng Sinh"."Là gì vậy?". Tôi tò mò hỏi.Ngài ấn ngón trỏ lên đôi môi hồng hào mỏng manh, và một tiếng suỵt dài phát ra."Bí mật!".Sau đó Ngài liền quay mặt đi không nhìn tôi nữa, còn tôi thì vẫn tò mò nhưng lại thở dài chán nản, chợt cả hai đều cùng cười khúc khích. Ngồi ở quãng trường một lúc lâu, đã đến lúc phải quay về rồi.Tôi và Ngài lên xe điện để về lại căn hộ trên đại lộ Ópera nằm giữa quận Louvre và quận Bourse. Lúc này đã gần nửa đêm, ngoài đường ngoại trừ những chiếc ô-tô thỉnh thoảng chạy qua, còn lại chẳng có lấy mấy người trên phố.Chúng tôi vội vã mở cửa và đi vào trong không gian ấm áp của căn hộ, xoa xoa tay cố gắng xua đi cái lạnh đóng băng của trời tuyết bên ngoài. Tôi đứng treo áo khoác ở cạnh cửa trong khi Ngài đi tới máy sưởi và điều chỉnh nhiệt độ trên bảng nút.Tôi lặng lẽ đi vào bếp và pha một bình trà nóng, tôi biết Ngài không mấy thích những thức uống đậm vị sữa như ca cao nóng và luôn nói nó có hương vị tuy ngon nhưng lại quá nồng so với bản thân. Bỗng một cơn đau nhói lại đột ngột ập đến siết chặt lấy ngực trái của tôi, khiến cho hơi thở của tôi bị nghẹn lại. Tôi lảo đảo ngồi gục xuống ghế ở bàn ăn, cúi gầm mặt và ôm lấy ngực, mảng áo ở đó cũng bị tay tôi vò đến nhàu nhĩ. Tôi ngậm chặt môi, cố gắng hết sức bình sinh đè xuống những tiếng ho khù khụ trong cổ họng khiến chúng nghe đặc và trầm. Cảm thấy một luồng hơi nóng xộc thẳng vào não mình, tầm nhìn choáng váng, tay chân như mất hết sức lực tê rần buông thõng xuống. Một lần nữa tôi cố gắng bình tĩnh lại, hít thở bằng cả mũi và miệng, hớp từng hơi ô-xi như muốn níu lấy sự sống. Qua một hồi vật vã cuối cùng tôi cũng thoát được khỏi trạng thái như sắp ngất xỉu ấy, cả cơ thể tôi uể oải mệt nhoài, buồng phổi căng cứng tức ngực, hơi thở nhẹ đến mức chẳng thổi bay nổi một tờ giấy.Cảm thấy mình đã nán lại quá lâu, tôi không muốn khiến Ngài nghi ngờ hay lo lắng, nên vội vàng sốc lại biểu hiện rồi lấy đồ rời khỏi phòng bếp. Bưng khay trà nghi ngút khói đi vào phòng khách, tôi thấy Ngài đang ngồi ở ghế sô-pha dài đặt trước lò sưởi đốt củi, hoa tai và vòng cổ cũng đã được cởi ra bỏ lại trên ngăn tủ kế bên. Tôi chậm rãi bước lại gần, để khay xuống bàn nhỏ gần đó rồi lấy một ly trà nóng đưa cho Ngài. Ngài nhận lấy rồi từ tốn kê bên môi uống một ngụm và khẽ thở dài mãn nguyện.Tôi chầm chậm ngồi xuống ghế, ngay bên cạnh Ngài, giữ im lặng, những dấu hiệu ban nãy vẫn còn nán lại làm cho cả người tôi mụ mị lờ đờ. Ngài nhẹ nhõm đặt ly trà xuống nhưng khi ly sứ vừa chạm mặt gỗ thì phía sau đã vang lên tiếng gõ cửa dồn dập khiến cho cả hai đều giật mình quay phắt lại.Cả hai đều cảm thấy kì lạ vì giờ này đã gần giữa khuya, bình thường sẽ không có ai đến tìm vào lúc đêm hôm khuya khoắt như vậy.Tiếng gõ càng lúc càng dồn dập, cảm nhận được sự gấp gáp của người phía bên kia, tôi liền đứng dậy và bước tới mở cửa, Ngài ở ngay đằng sau.Cánh cửa căn hộ bật ra để lộ một thanh niên trẻ người ngoại quốc dáng vẻ có phần bồn chồn và vội vã, khi thấy chúng tôi trên mặt cậu liền hiện ra vẻ nhẹ nhõm khôn xiết nhưng vẫn mang nhiều phần nghiêm trọng.Lúc này Ngài đã đi tới cửa, tôi đứng nép qua để Ngài đối diện với cậu thanh niên trẻ."Cậu tìm ai sao? Có chuyện gì không?".Chẳng kịp để lời nói của Ngài có khoảng nghỉ, người thanh niên đã vội tiếp lời bằng ngôn ngữ tiếng Pháp, giọng nói gấp gáp và ngắt quãng vì hơi thở hổn hển, hình như là đã phải chạy một quãng đường dài để tới đây."Thưa bà! Có phải là mẹ của Phillippe sống ở đây không?".Tôi thấy biểu cảm của Ngài có vẻ cẩn thận nhưng Ngài cũng lên tiếng đáp lại ngay."Là tôi"."Thật tốt! Làm ơn thưa cô! Cô phải đi cùng tôi ngay bây giờ!".Tôi nhìn người thanh niên trẻ thở phào một hơi khi biết Ngài là người cậu cần tìm nhưng lập tức lại trở về bộ dạng vội vã ban đầu và yêu cầu Ngài mau chóng đi cùng cậu ta. Câu thanh niên với giọng Pháp đặc thù liên tục nói không ngừng nghỉ, và qua nhiều năm thông thạo tôi có thể hiểu rõ nội dung đoạn hội thoại điên cuồng của họ. Với câu nói trước đó của người thanh niên, tôi đã biết người tên Phillippe được nhắc đến là ai, và cậu đang giải thích lý do đến gõ cửa vào giữ khuya thế này. Cậu thanh niên nói rằng người bạn của cậu ta đã gặp tai nạn xe trên đường và hiện đang được chuyển vào bệnh viện thành phố, cần có người thân đến để hoàn tất một số thủ tục bàn giấy, cho nên cậu ta mới tìm đến đây. Hai người trao đổi qua lại bằng tiếng Pháp trôi chảy và rồi tôi nhìn thấy thái độ càng lúc càng lo lắng của Ngài. Sau một hồi nói chuyện, Ngài để người thanh niên đợi ở cửa và liền nhanh chóng đi vào phòng ngủ, tôi hoang mang đuổi theo tới đúng lúc thấy Ngài đang lấy một số tiền bỏ vào ví cầm tay.Tôi lặng lẽ đi tới bên cạnh nhìn Ngài với đôi tay run rẩy đang cố nhét tiền và vật dụng vào ví. Tôi mím môi, hơi thở dần nặng hơn, lúc này tôi mới bối rối cất giọng hỏi han."Tình hình có nghiêm trọng lắm không?".Lúc này Ngài đã bỏ hết đồ vào ví và đậy kín. Ngài đứng dậy, bước đến trước mặt rồi nắm lấy bắp tay tôi, tôi cảm nhận được cái siết chặt run run của Ngài."Ta cũng chưa biết được nhiều, phải tới đó mới có thể chắc chắn".Tôi rụt rè gật đầu, một sự bồn chồn dâng lên trong bụng. Ngài nhìn tôi với ánh mắt lo lắng có phần bất lực, thả lỏng và xoa xoa bắp tay tôi nơi mà Ngài vừa siết lấy, thở dài một hơi run rẩy."Ta đi thăm Bảo Thăng, có thể sẽ về khá trễ. Cũng khuya rồi, em không cần phải đợi ta, cứ đi ngủ trước".Tôi cũng chẳng dám trái lời, chỉ gật gật đầu như đã hiểu ý. Sau đó Ngài đưa tay vỗ nhẹ vào bên má tôi rồi vội vàng bước qua đi ra ngoài, rời đi cùng cậu thanh niên vừa đứng đợi ở cửa.Nhìn theo bóng dáng Ngài khuất khỏi hành lang vắng vẻ rồi biến mất ở lối xuống cầu thang, tôi nhẹ nhàng đóng cửa lại, quay trở vào trong.Tôi đi tới và ngồi xuống ghế dài, chậm rãi cầm lấy ly trà còn ấm và nhấp một ngụm lớn, hơi nóng tràn đầy buồng phổi lập tức dễ chịu.Ngồi trước lò sưởi đang nổ tanh tách, nhìn những ngọn lửa tham lam nuốt lấy khúc củi sần sùi khô ráo, lúc này trong lòng tôi bỗng có rất nhiều cảm xúc. Những kí ức đột nhiên ùa về, bồi hồi, day dứt, bối rối, nhớ nhung.Từng dòng từng dòng kỉ niệm tràn ngập tâm trí đang dần trở nên lờ đờ của tôi. Những ngày đầu tiên trở thành sinh viên ở Đà-Lạt, lần đầu tiên gặp Ngài đêm hôm ấy, quãng thời gian thanh xuân đẹp đẽ đầy trải nghiệm, nỗi nhớ mong mỏi về Ngài những năm xa cách. Giai đoạn sung sướng được ở bên cạnh Ngài trong dinh, cuộc sống đầy rẫy biến động giữa thời chiến loạn sau khi Ngài rời đi, quãng đường đơn độc lạc lõng giữa thành phố Paris hoa lệ, rồi sau cùng là thời gian hạnh phúc nhất vì đã được ở bên cạnh Ngài và biết rằng sẽ không còn bị chia cắt nữa. Tất cả những dòng hồi tưởng như một cuộn phim chầm chậm chảy qua tâm trí khiến tôi mãn nguyện mà nhoẻn miệng cười vì cảm thấy ấm áp và hạnh phúc tràn đầy.Tôi ngồi ngây ngẩn ở sô-pha rất lâu, rất lâu, đến nỗi tôi cũng không còn nhớ được thời gian nữa. Ngài đã dặn không cần phải đợi, nhưng trong thâm tâm tôi lại muốn đợi Ngài trở về. Ngài đã đi quá lâu, tôi ngồi đợi cũng cảm thấy có chút buồn chán. Tự lấy vài cuốn sách trên giá rồi lặng lẽ ngồi đọc, không gian xung quanh tôi lúc này yên tĩnh đến lạ. Phòng khách chìm trong bóng tối vì thiếu đèn, nguồn sáng le lói duy nhất đến từ lò sưởi trước mặt, chỉ đủ để chiếu sáng một góc nhỏ. Mọi thứ đều tĩnh lặng, chỉ có âm thanh vo vo của máy sưởi đang hoạt động và tiếng nổ lách tách từ lò sưởi đang cháy. Rồi dần dần, đầu tôi cứ ong ong, hai mắt cụp xuống nặng trĩu, có lẽ tôi buồn ngủ rồi thì phải?Đóng cuốn sách lại tùy tiện bỏ lại trên ghế dài, tôi chầm chậm lê bước đi về phòng của mình. Thả người nằm xuống giường, lúc này toàn thân tôi đều thấy rất nặng, một cảm giác nặng trịch, nơi ngực trái lại bắt đầu dấy lên cơn đau nhói nhưng không còn dữ dội mà chỉ âm ỉ nhức nhối. Tầm nhìn trở nên mờ đục mơ màng, tay chân không còn sức lực, cảm giác uể oải mỏi nhừ, dường như tôi không thể khống chế được cử động của bản thân nữa.Chợt, tâm trí tôi muốn làm một điều gì đó, cảm thấy có một sự thôi thúc tôi cần phải làm một điều gì đó! Tôi cố gắng gượng người dạy lê qua mở ngăn kéo tủ đầu giường, chầm chậm lấy ra một cây viết mực và tập giấy trống. Cơn ho một lần nữa ập đến kéo theo những âm thanh khù khụ đặc sệt trầm khàn, hai buồng phổi cũng thấy căng đầy rồi tê rần rần.Tôi run run viết vào trong tờ giấy trống trước mặt bằng nét chữ nghiêng nghiêng, dù đã cố gắng viết cho đẹp nhưng nét chữ vẫn hiện rõ sự nguệch ngoạc đứt gãy. Phải mất gấp đôi thời gian bình thường tôi mới có thể hoàn thành dòng chữ ngắn gọn. Tôi cẩn thận đặt cây bút và tập giấy lên tủ cạnh giường, rồi ngã xuống giường nằm thở hổn hển những hơi thở nông và nhẹ hẫng.Ho khẽ vài tiếng trầm, tôi chầm chậm kéo mền qua vùng bụng, đầu lùng bùng nặng nề chìm vào gối bông mềm mại. Hơi thở dần dần nặng rồi trở nên nhẹ hơn, cơn đau nhức nơi ngực trái cũng từ từ tan ra, tay chân không còn cảm nhận, toàn thân được bao phủ bởi cảm giác thoải mái êm ái. Đôi mắt phủ đầy sương, tôi lờ mờ nhìn thấy bóng một người phụ nữ đi giữa đồng cỏ xanh biếc bạc ngàn trải dài đến chân núi ở xa xa. Nhìn thấy cô ấy ngồi đọc sách giữa vườn hoa đầy màu sắc như trong cổ tích. Tôi mỉm cười đáp lại nụ cười dịu dàng hạnh phúc của cô ấy, rồi từ từ gương mặt của cô ấy xua đi lớp mây mù và dần hiện ra.Là Ngài.Ngài đang cười với tôi, rất ấm áp và vô cùng hạnh phúc.Đôi mắt tôi khép lại, một hơi thở mãn nguyện, để cơ thể chìm vào trong giấc ngủ nhẹ nhõm.Còn dòng chữ mà tôi để lại?Nó viết. "Hẹn gặp lại Ngài ở Domaine de la Perche".
Mùa xuân, Năm 1957.Chúng ta đâu thể nào biết được, khi nào rồi sẽ gặp lại?Cuộc đời này luôn ẩn chứa rất nhiều bất ngờ, những điều kì diệu luôn hiện hữu xung quanh, nhưng lại có mấy ai có thể dừng lại chỉ một vài phút để nhận ra thứ nhiệm màu nhỏ nhoi đó giữa cuộc sống cứ mãi chạy theo dòng thời gian hối hả.Rất nhiều rất nhiều người luôn đi về phía trước, họ chưa từng dừng lại, chưa từng nghỉ ngơi để cảm nhận được những thứ đang tồn tại quanh họ. Con người trên thế giới này luôn mong ước những điều cao cả lớn lao ở tương lai, nhưng họ nào biết được đôi khi điều họ mong mỏi chỉ ở đây, ở ngay bên cạnh mình. Nhưng bản thân họ lại không hề nhận ra, nên chẳng biết trân trọng để rồi mất đi thứ hằng khao khát theo đuổi.Còn tôi?Tôi không giống họ. Từ lâu tôi đã tự nhận thức được dường như bản thân luôn hụt lại một nhịp chậm hơn so với mọi thứ. Tôi vẫn thường cảm nhận mình luôn trễ lại so với dòng chảy của cuộc sống này, luôn phải vật lộn để đuổi kịp thời thế đang thay đổi điên cuồng đến nghiêng trời lệch đất.Đối với nhưng kẻ bị cuốn vào guồng quay bận rộn của nhịp sống nơi thành phố hoa lệ này thì điều đó chắc chắn là một nhược điểm chết người. Nhưng họ nào biết? Họ sẽ không bao giờ có được những cảm xúc chỉ dành cho những tâm hồn lạc lỏng giữa thế giới rộng lớn.Và cũng chính những nhược điểm ấy lại biến thành ưu điểm của riêng những "kẻ bị bỏ lại". Điều đó cho họ có cơ hội để cảm nhận những điều kì diệu nhỏ nhặt trong cuộc sống, cơ hội để nhận ra những thứ mà bản thân đã vô tình bỏ lỡ ở một thời điểm nào đó và kịp thời sửa chữa nó, cơ hội để chiêm ngưỡng bức tranh xã hội sinh động đang diễn ra xung quanh. Không cần phải vội vã, không cần phải chạy theo, chỉ thong thả ung dung mà tận hưởng món quà tạo hóa mang tới.Ở thời điểm nào đó khi thế giới đột ngột lấy đi của bạn một điều vô cùng quý giá và bạn cảm thấy cả trời đất như sụp đổ trước mắt mình. Nhưng vào một ngày của sau này rồi tạo hóa sẽ trả lại cho bạn sự bù đắp còn đáng giá hơn gấp trăm lần.Mười năm, tâm hồn tôi đã bị che phủ bởi tầng tầng lớp lớp mây mù xám xịt, cho dù cố gắng xua đi cũng chẳng thể chạm tới tận cùng nơi sâu nhất trong biển mây vô tận dày đặc đen kịt ấy. Và rồi chỉ bằng một ánh mắt tha thiết, một nụ cười dịu dàng, những thứ không có hình dạng tưởng chừng không bao giờ có thể làm tổn thương bất cứ ai, nay lại đủ sức nặng để đập tan đi bóng tối nơi trái tim tôi, xua tan lớp mây mù bao phủ nơi tâm hồn tôi. Một lần nữa chính đôi mắt và nụ cười đó đã cứu rỗi linh hồn tôi.Hay nói đúng hơn là một người phụ nữ, người đã kéo tay tôi chạy về phía mặt trời.Không! Cô ấy mới là mặt trời, một mặt trời ấm áp bằng lòng vĩnh viễn nắm lấy tay của tôi.Tôi vẫn còn nhớ rất rõ, đêm ấy, Ngài đã theo tôi về nhà. Trong căn hộ áp mái nhỏ, chúng tôi ở đối diện nhau khi Ngài ngồi thoải mái trên ghế sô-pha bọc da sờn cũ và tôi chiếm lấy cái ghế đẩu nhỏ vừa mua mấy tháng trước. Đôi tay Ngài ôm lấy ly trà âm ấm mà tôi đã pha trong khi tôi cúi đầu lặng lẽ nhấm nháp nửa thanh Sô-cô-la ngọt lịm với một nửa còn lại vẫn bọc trong giấy gói. Khi ấy chúng tôi chỉ im lặng ngồi bên cạnh nhau, không ai nói một lời, tận hưởng sự hiện diện của nhau trong không gian yên tĩnh ấm áp mà căn hộ nhỏ mang lại.Qua khóe mắt tôi có thể thấy được rất nhiều cảm xúc khác nhau trên gương mặt mà tôi chưa bao giờ dám và cũng không thể nào quên. Tôi dõi theo khi Ngài lặng lẽ đưa mắt nhìn quanh căn hộ của mình, đôi khi ánh mắt sâu lắng ấy lại chợt khựng lại ở nơi nào đó trong phòng nhưng nhanh chóng lại lướt qua. Sau cùng tôi thấy nụ cười hiện ra trên môi Ngài, một nụ cười vừa có phần nhẹ nhõm lại pha lẫn chút hài lòng. Trong lòng tôi thầm nghĩ có lẽ Ngài nhẹ lòng vì hoàn cảnh của tôi không quá khổ cực như Ngài lo sợ và hài lòng vì tôi có thể tự mình ổn định đời sống ở nơi Paris xô bồ phức tạp này.Tôi mừng thầm trong lòng, khoảng thời gian dài đằng đẳng vẫn không thể khiến sự hiểu biết mà tôi dành cho Ngài suy giảm, tôi vẫn thấu hiểu được tâm tư của Ngài rõ ràng như mười năm trước.Sau một khoảng thời gian gần như sắp chết chìm trong sự tĩnh lặng bối rối, rốt cuộc Ngài cũng đã mở lời bắt chuyện với tôi. Tôi vẫn nhớ Ngài đã hỏi về cuộc sống của tôi và cả về sức khoẻ của tôi. Tôi có phần ngượng ngùng đáp lại từng câu hỏi của Ngài, lúc đó tôi vẫn cảm thấy ngại vì từ lâu tôi đã không còn chia sẻ về bản thân mình với người khác nữa, kể cả với Điền.Và rồi đột ngột Ngài trầm ngâm một lúc lâu, ánh mắt có vẻ tò mò nhưng cũng có phần cẩn thận nhìn tôi. Đắn đo hồi lâu Ngài mới mở lời hỏi về quãng thời gian qua của tôi. Khi ấy giống như được dội một xô nước lạnh giữa ngày hè oi ả, tôi liền cất giọng đáp lại, ban đầu có chút e dè vì người trong lòng đang ở trước mặt tôi, nhưng sau đó tâm trạng của tôi giống như trở về nhiều năm trước, tôi chậm rãi kể lại tường tận cuộc hành trình dài vô định của mình.Bắt đầu với những ngày tháng sau khi Ngài rời đi, đến nguyên nhân tại sao tôi lại đột ngột bỏ chạy khỏi đất nước. Thời gian dài vô tận trên tàu vượt biển với ngừng con sóng cuồn cuộn đập ầm ầm vào sườn tàu, những cơn bão lớn giữa biển cả mênh mông. Ấn tượng khi lần đầu tiên đặt chân đến đất Pháp ở cảng Le Vieux-Port, quãng đường xa xôi không biết ngày đêm trên chuyến xe lửa từ Marseille tới Paris. Đoạn thời gian khó khăn lúc đầu khi tìm một công việc, những đêm mùa thu thiếu thốn tiền bạc và vật chất phải trải qua với khoai tây nghiền cùng đậu đóng hộp. Ngày mừng rỡ hạnh phúc vì gặp được Duy Văn và có một công việc được trả lương hậu hĩnh. Sau cùng là những tháng ngày bận rộn ngập trong giấy tờ và bản soạn thảo, rong rủi trên phố vào những đêm tăng ca muộn tới tận khuya.Tôi cũng không quên kể với Ngài về Điền và Duy Văn, những người bạn, người anh và là ân nhân của cuộc đời mình. Kể về việc Điền đã giúp đỡ tôi hết mình như thế nào, đồng hành bên cạnh ủng hộ và động viên tôi như thế nào. Và rồi cách tôi dần coi Điền như anh trai của mình như thế nào, cách mà anh dần dần rời đi để rồi đổi lại là lúc tôi có thể tự đứng vững trên đôi chân của mình trong cuộc sống mới.Khi câu chuyện của tôi kết thúc, tôi ngồi co ro trên ghế, âm thầm giấu đi hơi thở hổn hển của mình, rụt rè đưa mắt quan sát thái độ của Ngài. Cái áo len dày dặn kín đáo cũng không đủ để xua đi hoàn toàn cái lạnh khắc nghiệt của Paris khi ấy, làm cho cơ thể tôi thỉnh thoảng lại run rẩy vì lạnh.Chúng tôi im lặng ở bên cạnh nhau, chìm trong không gian của nhau, chỉ có những hơi thở khẽ khàng ngân nga. Thế giới này có nhiều câu chuyện kể đều được diễn đạt bằng những lời nói, có lúc chỉ trong chốc lát, có khi lại kéo dài dằn dặt. Mọi người thông qua trao đổi bằng câu từ để hiểu được một người khác, nhưng điều này lại khác biệt giữa chúng tôi.Có lẽ vì đã quá thấu hiểu? Hay là quá quen thuộc về đối phương chăng? Có lẽ giời phút này trong lòng đều có rất nhiều rất nhiều điều để nói, để kể cho nhau nghe, nhưng cổ họng nghẹn cứng, tâm trí mơ màng lại không biết phải sắp xếp những câu chữ rối tung trong đầu như thế nào để có thể diễn đạt ra bằng lời một cách mạch lạc mà không gây khó chịu cho người trước mặt. Bởi vì nhỡ đâu chỉ cần một chút bối rối để cảm xúc trong lòng vượt qua hạn mức nguy hiểm liền có thể để mình để lộ ra những lời lẽ không nên và không được phép thốt ra lời.Tôi biết khi ấy trong tâm tư Ngài có rất nhiều điều muốn nói với tôi, có nhiều câu muốn hỏi tôi nhưng Ngài lại chưa từng lên tiếng. Tôi biết chứ! Vì tôi cũng như vậy mà.Muôn vàn câu hỏi, muôn vàn thắc mắc dần dần trào lên các khoang trống trong tâm trí và trái tim, tôi có cảm giác lòng mình bị lấp đầy, ngột ngạt, khó thở vô cùng. Những câu hỏi tại sao, tại sao luôn lờn vờn lặp đi lặp lại hàng trăm lần trong đầu, rất muốn có được câu trả lời thỏa đáng cho từng cái một. Nhưng sau cùng tôi đã không để thứ cảm giác đó chiếm lấy mình, tôi đã hạ gục nó, để nó trôi đi theo những câu chuyện cũ mà không bao giờ được nhắc đến nữa. Bây giờ tôi chỉ cần quay lại đây, tận hưởng khoảnh khắc này. Không cần ai phải nói, không cần người nào cất lời, chỉ lặng lẽ bên cạnh nhau, cảm nhận tâm trạng của nhau, cảm nhận tâm hồn của nhau. Quan trọng, cảm nhận sự hiện diện của nhau sau quãng thời gian mười năm xa cách.Và rồi trong giây phút ấy, chúng tôi như trở lại với cảm xúc của những năm ấy. Trở lại những năm chỉ có ngài Hoàng và cô thợ làm vườn tuổi hai mươi.Khi đó, trái tim tôi bỗng đập thình thịch run rẩy khi nhìn thấy ánh mắt của Ngài. Nó khó xử, ẩn nhẫn, và rồi biến thành kiên định.Không do dự, không vòng vo và vô cùng thẳng thắn, Ngài đã cất giọng hỏi tôi với một sự e dè mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy ở Ngài.Ngài hỏi, liệu tôi có thể chuyển đến ở cùng Ngài không?Tôi vẫn còn nhớ rõ tâm trạng của mình khi đó, bất ngờ, bối rối và ngỡ ngàng. Tôi ngồi chết trân ở ghế, đôi mắt tròn xoe dao động nhìn Ngài, cổ họng cứng đờ không thể thốt nên lời. Có phải Ngài vừa đưa ra một lời đề nghị cho tôi không? Có phải Ngài vừa mời tôi đến sống cùng Ngài không? Hay là do đầu óc tôi quá mù quáng và mộng mị nên nghe nhầm ý Ngài mất rồi?Cảm giác lúc đó của tôi như thế nào nhỉ?Khó tả lắm!Một chút bồi hồi xen kẽ ngậm ngùi xúc động, một chút phấn khích phân lẫn sung sướng khôn xiết. Tôi có cảm giác như một vầng thái dương rực rỡ rọi vào trong căm hầm tăm tối của mình, làm bừng sáng cả tâm hồn mình.Tôi đã im lặng rất lâu, nhưng Ngài chưa từng lên tiếng thúc ép tôi, chưa từng cố tạo cho tôi một sự áp lực nặng nề nào. Ngài vẫn kiên nhẫn chờ đợi câu trả lời của tôi. Tôi đã cố gắng nhưng vẫn không thể kìm nén được dòng hơi nóng xộc lên lan trên mắt và hai má mình, sóng mũi cũng cay cay. Tôi nặng nề hít vào một làn khí lạnh, rồi mạnh mẽ thở ra bằng miệng với hai bên má căng phồng âm ấm, một làn khói trắng nhỏ được tạo thành tụ lại trước miệng khi tôi thổi ra trong hơi lạnh.Khi đó, hai mắt long lanh nước với tâm trạng nghẹn ngào, tôi rung động nhìn về phía Ngài.Tôi gật đầu.Theo sau là những tiếng thút thích khe khẽ và hàng nước mắt nóng hổi rơi xuống tận cằm.Và lúc đó, tôi nhìn thấy một tia sáng hy vọng loé lên trong đôi mắt óng ánh và nụ cười dịu dàng mà tôi hằng yêu thương dần hiện ra.
Paris - Cuối thu, năm 1957.Kể từ ngày hôm đó, cuộc đời tôi lại lật sang một trang giấy khác, trang giấy trống trơn đang đợi để được tô vẽ bằng những câu chữ chất chứa những cảm xúc sẽ không bao giờ được nói thành lời.Tôi không còn có thể đếm được quãng thời gian cả cuộc đời tôi đã lật qua bao nhiêu trang giấy, lật qua bao nhiêu cuốn sổ hằng sâu chi chít chữ viết. Bước đi từ một cô gái ở độ tuổi thanh xuân với hai bàn tay trắng, trải qua những cung bậc cảm xúc như con sóng nhấp nhô, sống trong những sự kiện đã làm thay đổi cả thế kỉ, cho đến tận lúc này đã rèn dũa tâm hồn tôi trở nên kiên cường và điềm tĩnh để đối mặt với một thế giới không có màu hồng.Suốt những năm tháng đầy rẫy phong sương ấy, thế giới chuyển mình, thời cuộc thay đổi, rất nhiều con người đã không còn giữ được những lý tưởng của bản thân. Riêng bản thân tôi dù rằng đã có những khác biệt trong tư tưởng và nhân cách giữa thời niên thiếu và độ tuổi cuối xuân thì của mình, nhưng ở đâu đó nơi sâu thẳm trong tâm hồn mình, có một mối liên kết mạnh mẽ vẫn vẹn nguyên như giây phút ban đầu của nó.Phần tình cảm mà tôi dành cho người phụ nữ tôi gặp dưới đêm trăng bạc nơi Đà-Lạt khi ấy, người con gái mà tôi sẽ vĩnh viễn không bao giờ có thể cùng đứng kề vai dưới ánh mặt trời tỏa sáng, vẫn chưa bao giờ thay đổi. Nó đơn giản, sâu lắng, nhẹ nhàng, miên man và da diết, phần yêu thương được âm thầm vung đắp bằng cả trái tim suốt cuộc đời.Kể từ sau đêm hôm ấy, tôi đã quyết định quãng đời còn lại của bản thân không còn muốn rời xa người phụ nữ quý giá đã có được trái tim của tôi nữa! Tôi từng bất lực bỏ lỡ những năm tháng được ở bên cạnh người mình yêu thương, bây giờ tôi sẽ không bao giờ buông tay nữa, tôi sẽ nắm giữ thật chặt lấy cơ hội thứ hai kì diệu này mà tạo hóa đã ban cho mình.Sau cái đêm tình cờ và nhận được lời đề nghị ấy, không lâu sau Ngài trở về lại Chabrignac nhưng chúng tôi đã có được cách thức liên lạc của nhau. Chúng tôi đã bàn bạc và Ngài đồng ý cho tôi khoảng thời gian ba tháng để thu xếp cuộc sống của mình rồi tôi có thể chuyển đến thị trấn theo địa chỉ đã được ghi lại. Những ngày tháng ấy phải nói là ôi thôi! Thật khủng khiếp!Mỗi một ngày tôi đều bận đến bù đầu, khi đó vừa hay toà soạn đang vào giai đoạn bận bịu nhất cả năm để tập trung vào kì Giáng Sinh vài tháng sắp tới. Khối lượng công việc tăng lên gấp ba-bốn lần, trong mấy tháng đó tôi gần như bị vắt cạn kiệt về thể chất và trí óc. Cả ngày đều cắm mặt ở toà soạn từ sáng sớm cho tới tận tối mù tối mịt, thậm chí có nhiều đêm tôi còn không về nhà mà chấp nhận ngủ lại luôn trong cơ quan. Thực ra khi ấy tôi chỉ muốn hoàn thành tất cả công việc còn dang dở của mình để có thời gian mà thu dọn chuyển về Chabrignac càng sớm càng tốt.Tôi không muốn để Ngài phải đợi tôi nữa.Nhưng thật khó khăn, mọi thứ không hề dễ dàng như tôi đã từng tưởng. Cứ như thế, vốn dĩ tôi muốn tiến hành càng nhanh càng tốt, nhưng cuối cùng lại bị kéo dài hết tận hai tháng!Khi mùa cao điểm trôi đi, rốt cuộc công việc mà tôi phụ trách ở toà soạn đã hoàn tất, tôi nhớ mình đã vô cùng tự tin cầm trên tay lá thư xin nghỉ việc bước vào văn phòng rồi dõng dạc đặt xuống phía trước tấm bảng tên Raphael.F.Dubois của tổng biên tập, khi đó biểu cảm trên gương mặt người đàn ông độ tuổi bốn mươi đầy vẻ ngạc nhiên và sốc, ngược lại tôi chỉ cảm thấy nhẹ nhõm hệt như gánh nặng trên vai đã được trút bỏ.Sau khi nhận được lời chấp thuận nghỉ việc, tôi đã có thể yên tâm bắt đầu thu dọn căn hộ của mình. Bán hết những đồ nội thất còn mới và đem quyên góp số còn lại cho nhà tình thương và những nơi cần thiết, sơn phết sửa sang lại vài chỗ ẩm mốc của giấy dán tường ố màu trong quãng thời gian mà tôi đã thuê. Đóng gói tất cả đồ đạc linh tinh cũng được một đống thùng giấy lớn chất đầy cả phòng khách nhỏ, hơn một nửa số đó đều bị bỏ đi và số ít khác tặng lại cho bạn bè và đồng nghiệp. Đống báo giấy cùng tạp chí cũ mà tôi thường dùng để tìm cảm hứng và tra cứu thông tin chất cao như núi trong góc phòng nơi từng để cái giường của Điền cũng được dọn sạch, phân loại và mang tới cơ sở thu rác.Vào một buổi tối nào đó, tôi đã từng đứng giữa khu vực mở vốn là phòng khách lúc trước, tôi đã đứng rất lâu và đưa mắt qua khắp căn hộ đã trống trơn không còn đồ đạc và đồ nội thất. Khi ấy trong lòng tôi chất chứa rất nhiều cảm xúc.Và rồi chỉ còn lại một việc cuối cùng mà bấy lâu tôi vẫn canh cánh, điều đó như một cái gai mọc ngược mà mỗi khi nghĩ tới trong lòng tôi lại ngày một áy náy khôn nguôi. Nói lời tạm biệt với bạn bè của tôi.Ngày mà thùng đồ đạc cuối cùng trong căn hộ được dọn đi, tôi đã mời vợ chồng Điền và Duy Văn cùng ra ngoài ăn cơm, và lý do tôi đưa ra cũng vô cùng ngẫu hứng là để gặp mặt ăn uống vì quá cực khổ bận bịu trong những tháng qua. Và rồi cả hai đều vui vẻ đồng ý, họ chẳng mảy may nghi ngờ về mục đích phía sau của tôi.Buổi tối đó chúng tôi đã chọn đến một nhà hàng quen thuộc, De La Forêt-de-séquoias (Rừng gỗ đỏ) nằm nép mình ở con phố nhỏ có nhiều nhà hàng và quán bar không quá xa nhà thờ Cathédrale Notre-Dame (Nhà thờ Đức Bà), nơi này luôn thuộc khu vực nhộn nhịp các hoạt động khi về đêm của quận Hôtel-de-Ville. Thỉnh thoảng cả ba chúng tôi đều thường dạo phố và ăn uống ở đây, dần dà nơi này đã trở thành đại bản doanh của những cuộc say quên lối về giữa những người bạn quá phấn khởi khi có điều gì đó đáng để ăn mừng.Bình thường tôi luôn là người có mặt sớm nhất cả nhóm, đến nhà hàng và nhận bàn cũng là việc làm quen thuộc do tôi phụ trách. Khoảnh khắc vừa bước qua cánh cửa kính mờ đục vì sương tối, tôi đã khá choáng ngợp bởi sự đông đúc của nhà hàng, không gian trước mặt tôi chật kín người là người ngồi san sát xen kẽ vào nhau, bàn đôi hay bàn đơn thậm chí cả bàn dài cũng được đặt chỗ đầy ắp. Phút chốc tôi mới chợt nhớ ra hôm ấy là thứ bảy, ngày tụ tập dành cho bạn bè ưa thích của người Paris, hèn gì nhà hàng lại nhộn nhịp như vậy!Vào những ngày trong tuần nhà hàng thường không đông khách như vậy, dù vẫn tấp nập kẻ ra người vào vì thức ăn ngon miệng với các loại rượu chất lượng cao cùng sự phục vụ chu đáo. Sàn ván tối màu, trần gỗ thấp hơi cũ, những bức tường xung quanh đều có những mảng lộ ra của gạch nung màu cam cháy và rất nhiều phần vữa trắng bị trát sơ sài giống như chưa được hoàn thiện. Bàn tròn và ghế có lưng tựa được bố trí và sắp xếp một cách chen chúc xen kẽ kỳ lạ nhưng lại có một quy luật trật tự của riêng nó. Nhìn tổng quan diện tích nhỏ nhắn của nhà hàng đối với người lần đầu tiên đến chắc chắn sẽ khá ngạc nhiên vì không nghĩ nó có thể phục vụ một số lượng khách hàng đông đảo như vậy, hơn nữa bây giờ còn chẳng phải mùa cao điểm của lễ hội. Ấn tượng đầu tiên khi đi qua cửa sẽ có cảm giác hệt như đang bước vào một nhà hàng thời những năm 1930 xưa cũ cổ điển.Tôi được một người bồi bàn hướng dẫn và đi theo anh ta tiến về phía sau nhà hàng. Cố gắng luồn lách qua dòng người ngồi chật cứng, tôi theo người bồi bàn đi sâu vào trong, bước lên trên những cầu thang chật hẹp cũ kĩ, mỗi bước chân của tôi khi dẫm lên làm cho từng bậc thang bằng gỗ cứ phát ra âm thanh cọt kẹt vui nhộn. Sau một hồi tôi cũng đã được yên vị ở cái bàn mà chúng tôi đã đặt trước đó, người bồi bàn lịch sự nhận đơn hàng gọi món và đồ uống của tôi rồi rời đi để thông báo với nhà bếp.Đây là nơi quen thuộc ưa thích của cả nhóm, và có những tháng chúng tôi từng đóng đô ở đây hằng đêm. Chỗ ngồi của chúng tôi nằm ở trên một gác lửng, với sàn được lát bằng những tấm gỗ thông lớn sẫm màu có những đường gân chìm chạy dài theo chiều dọc và bốn đinh tán lớn ở mỗi hai đầu. Bên trên là trần nhà thấp chỉ dư một khoảng nhỏ nếu như đang đứng thẳng người cũng được lót bằng gỗ ván. Gác lửng được che chắn an toàn bởi một lan can gỗ với những cột đỡ hình trụ tròn đơn giản kéo dài xuống hết cả cầu thang nhỏ hẹp dạng hộp ngay bên cạnh. Một chiếc bàn tròn nhỏ được phủ khăn dệt vải bố họa tiết caro vuông màu trắng và đỏ đặt ở giữa, bày trí bên trên đó là những chiếc đĩa sứ trắng và hai bên là bộ dao và nĩa bằng bạc sáng bóng lấp lánh, tất cả đều mang phong cách kiểu Bắc Âu cổ điển. Xung quanh kê vài chiếc ghế bốn chân cao có tựa lưng bằng gỗ bách và được lót nệm bông màu đỏ rượu phía trên mặt ghế. Hiện tại đã gần vào mùa Giáng Sinh nên khắp mọi nơi trong thành phố đều được bày trí theo mùa lễ, nhà hàng này cũng không khác biệt. Xung quanh gác lửng nhỏ ở chỗ ngồi của chúng tôi được chất đầy những hộp quà rỗng được gói đẹp mắt bằng giấy gói đầy màu sắc sặc sỡ và ruy băng hoặc nơ bướm, các bức tường sau lưng và lan can kéo dài tới cuối tay vịn cầu thang treo kín những dải dây Tầm Gửi và cành lá thông được tết thành dãy dài đính kèm theo đó là những quả cầu trang trí tròn màu đỏ rực rỡ và vàng hoàng gia treo lủng lẳng trên các tàng lá. Có rất nhiều dây kim tuyến lấp lánh cùng dây đèn cổ tích móc trên thành lan can và các bức tường, những ngọn đèn để bàn thắp thủ công và nến trắng được đặt khắp nơi cùng tỏa ra một ánh sáng màu vàng ấm áp chiếu sáng cho cả cái gác nhỏ. Không gian mở phía dưới nhà hàng cũng chìm trong những món quà trang trí và vòng Nguyệt Quế màu xanh tươi tốt cùng hoa Trạng Nguyên đỏ quyến rũ, nến và đèn được bày trí khắp mọi ngóc ngách, trong một góc của nhà hàng, nơi giao nhau giữa hai bước tường vẫn đầy những mảng gạch cam lộ ra không được trát vữa có một cây thông cỡ vừa đã được trang trí hoành tráng và dựng ở nơi đó khiến cho không khí trong nhà hàng vốn dĩ đã rất ấm cúng lại càng có thêm hơi thở Giáng Sinh hơn.Cả không gian nhỏ đông đúc của nhà hàng vang lên những tiếng người cười nói sôi nổi phấn khích, đôi lúc còn có phần ồn ào và huyên náo. Tiếng dao nĩa khua khoắn va vào đĩa tạo nên âm thanh lẻng kẻng chói tai, tiếng chuông cửa đinh đan reo lên cứ sau vài phút, tiếng bàn và ghế gỗ bị dịch chuyển kéo lê trên sàn gỗ phiến tối màu kêu cọt kẹt. Tất cả những âm thanh này gộp chung lại tạo nên một khung cảnh nhộn nhịp và ấm cúng nhưng cũng không thiếu sự náo nhiệt.Đột nhiên tôi lại cảm thấy may mắn vì có được một chỗ ngồi riêng để không phải chen chúc bên dưới không gian nhỏ hẹp chỉ vỏn vẹn mười lăm mét vuông hơn của nhà hàng, với số lượng người khủng khiếp như vậy nếu như buộc phải ngồi ở một bàn nào trong số đó thì chắc chắn chúng tôi bắt buộc phải chen chúc với rất nhiều con người ở dưới kia. Sở dĩ chúng tôi có được chỗ ngồi tốt và đắc địa như vậy do vốn là khách quen của nhà hàng, cùng với một chút quan hệ thân thiết giữa cô vợ Céline của Điền và ông chủ trung niên lịch thiệp mà sau cùng chúng tôi cũng được ông ấy để dành cái bàn đặc biệt này cho riêng cả nhóm. Mỗi khi có dịp ghé qua thì chỉ cần dùng cái tên Wapiti (Nai sừng tấm) để tìm bàn thì ngay lập tức sẽ có được chỗ ngồi dù bàn này trước đó đã có người khác đặt chỗ.Không biết vì tôi đến quá sớm, sớm hơn thời gian mà cả nhóm thường hẹn nhau trước kia hay là do tôi quá lo lắng vì điều sắp tới mà tôi cần phải nói với bạn bè của mình khiến tôi cứ bồn chồn nhìn theo hướng cầu thang, đôi lúc lại đứng dậy nhìn xuống không gian bên dưới về phía cửa chính. Nhưng chẳng kịp đợi nỗi lo lắng của tôi dần biến thành sự hoảng loạn hay thứ gì đó khác, những người bạn của tôi đã đi lên từ cầu thang bị che khuất bởi đồ trang trí. Nhìn những người bạn cười nói vui vẻ trong lòng tôi hiện lên cảm giác ngạc nhiên, vì những người bạn của tôi chưa bao giờ đi đúng thời gian đã hẹn nhưng hôm nay lại đến rất đúng giờ, thậm chí còn sớm hơn vài phút. Không để tâm trạng thấp thỏm xâm chiếm tâm trí mình, sau đó tôi cùng ba người bạn của mình... Không, phải là bốn người mới đúng! Vì giờ đây đã có thêm một người nữa gia nhập vào nhóm Nai Sừng Tấm của chúng tôi, người vợ xinh đẹp với đôi mắt xanh biếc như đại dương và mái tóc vàng hoe sáng ngời của Duy Văn, cô Charlotte Alba Rousseau. Cả năm người chúng tôi cùng ngồi xuống vây quanh bàn tròn nhỏ bắt đầu tất bật gọi món ăn cùng đồ uống.Chúng tôi đã gọi rất nhiều thứ, đa số là món Pháp và nửa còn lại là món Ý cùng đồ ăn kiểu Hoa kỳ. Thức ăn ngon lành nóng hổi cứ liên tục được phục vụ không ngừng từ những đầu bếp lâu năm của nhà hàng, hào phóng gọi nhiều chai rượu sâm-panh và rượu vang đỏ, thậm chí tôi còn đặt một phần ăn Giáng Sinh điển hình gồm gà tây nhồi nguyên con nướng cùng cà chua, chanh vàng lát cùng với cây hương thảo.Cả nhóm vừa ăn vừa trò chuyện vô cùng vui vẻ và phấn khích, mọi người đều nói về những câu chuyện thường ngày của họ ở chỗ làm hoặc ở nhà. Không khí dễ chịu đến mức có những phút tôi gần như quên mất cả mục đích chính ban đầu của mình.Nhấp một ngụm rượu đỏ có vị chan chát còn vương lại nơi đầu lưỡi. Tôi bình thản khoanh tay dựa lưng vào ghế lặng lẽ quan sát những người bạn của mình. Vợ chồng Duy Văn cùng vợ chồng Điền đang rôm rả cười nói qua lại, thỉnh thoảng còn bày ra những ngôn ngữ cơ thể để diễn đạt cho câu chuyện của bản thân. Tôi lia mắt về phía Điền và Céline, thầm thở dài nhẹ nhõm vì cử chỉ vuốt ve lưng một cách âu yếm mà anh dành cho vợ đã cho tôi nhận thấy rằng lúc này hai người đều rất viên mãn với tình yêu của họ.Kế đó tôi lại đưa mắt qua Charlotte cùng Duy Văn rồi im lặng theo dõi họ. Thực sự lúc đầu khi đưa ra quyết định của mình, bản thân tôi có chút không yên tâm về những người bạn của mình, Điền thì đỡ một chút, nhưng đâu đó tôi vẫn còn nỗi lo, đặc biệt là về Duy Văn. Vốn dĩ anh chàng trong vài năm từ quen biết đến làm bạn vẫn luôn độc thân, với công việc đặc thù lại thường đi sớm về khuya một mình, suốt ngày chả thấy có lấy một bóng hồng nào bên cạnh. Lúc đầu tôi khá lo cho Duy Văn, dù gì anh cũng gần giữa hàng bốn rồi, nói theo kiểu của tôi là đã "quá lứa lỡ thì" rồi, thế mà anh vẫn chưa kết hôn. Nhưng mọi việc đâu nhưng tôi tưởng tượng thái quá, chỉ mới vài tháng trước thôi chúng tôi đã nhận được thông báo kết hôn của Duy Văn và lễ cưới của anh với Charlotte diễn ra vô cùng hoàn hảo. Sau đó Duy văn mới nói cho chúng tôi biết rằng anh và vợ đã hẹn hò được gần hai năm rồi, chẳng qua họ chỉ muốn giữ điều đó làm bí mật của riêng họ nên mới im lặng không nói. Vậy mà anh chàng này làm cho tôi và Điền cứ lo lắng cho anh mãi!Duy Văn là người rất có khiếu hài hước, còn Charlotte thì lại rất hướng ngoại và thích nói chuyện cười đùa, tôi chợt nhận ra hai người họ quả thực rất hợp nhau. Người khác nhìn vào đều có cùng một suy nghĩ rằng dường như họ đã định sẵn sinh ra là để dành cho nhau rồi! Cuộc sống hôn nhân của cặp vợ chồng mới cưới dường như luôn tràn ngập trong niềm vui và tiếng cười và đang vô cùng hạnh phúc.Cuối cùng trong lòng tôi đã cảm thấy nhẹ nhõm, hai người bạn của tôi đã tìm được tình yêu và gia đình của họ, với sự hạnh phúc luôn bủa vây xung quanh hai cặp đôi định mệnh.Rốt cuộc tôi cũng có thể yên tâm, có lẽ đã đến lúc đến lượt tôi được phép đuổi theo tình cảm của bản thân mình rồi.Khi mọi người đã đến chặng cuối của việc đánh chén bữa tối thịnh soạn, sau cùng tôi cũng có đủ can đảm để bắt đầu câu chuyện của mình.Khi ấy tôi đã nói ra mục đích chính của mình với tâm trạng vô cùng bình thản."Em đã nhận lời của một người, không lâu nữa em sẽ chuyển về Chabrignac".Khoảnh khắc đó bầu không khí vui vẻ đột nhiên im bặt, không còn ai nói thêm gì nữa, âm thanh duy nhất lúc đó là tiếng dao nĩa bạc va chạm vào nhau vọng lên từ bên dưới phòng sảnh.Cả Điền và Duy Văn đều nhìn tôi chằm chằm trong khi hai cô vợ chỉ bày ra biểu cảm ngơ ngác và khó hiểu. Thực ra trong lòng tôi lúc này cảm thấy có chút căng thẳng, không khí xung quanh bất thình lình trở nên ngột ngạt vô cùng, nhưng tôi vẫn giữ vững sự kiên định trên mặt mình và giấu đi nỗi bồn chồn xuống bụng.Và rồi sau khi giằng co bằng một sự căng thẳng vô hình, cuối cùng Duy Văn cũng cất giọng nói chuyện với tôi. Anh hỏi rằng tôi đã quyết định kỹ càng rồi sao và tôi chỉ gật đầu một cách chắc nịch, tôi nghe được trong giọng của anh có hơi không chắc chắn. Tiếp đó Điền lại hỏi một câu khiến tôi hơi nghẹn lời thản thốt. Anh hỏi tôi. "Lúc nãy em nói là đã nhận lời người ta, có phải là cô ấy không?". Tôi chợt có chút lắng động và dòng cảm xúc cứ ào ào dâng lên trong bụng khiến tôi trong phút chốc không biết phải trả lời anh như thế nào. Nhưng sau một lúc bình tâm lại, tôi đã có thể dõng dạc đáp lại anh bằng một câu khẳng định và cái gật đầu rất nghiêm túc. Tôi nhận thấy hai cô vợ và Duy Văn đều tò mò nhìn vào Điền khi anh hỏi câu đó, dường như rất muốn biết cô ấy được nhắc đến là ai mà lại có đủ sức nặng khiến tôi quyết định rời bỏ những gì mà tôi đã và đang có ở Paris để chuyển về sống tại một thị trấn nhỏ xa xôi hẻo lánh.Nhưng chỉ vài phút sau tôi đã thấy được ánh mắt bỗng chốc loé sáng của Duy Văn, dường như anh đã dần nhận ra cô gái có được sự chấp thuận của tôi. Tôi cũng không bất ngờ lắm, thú thật, trước nay tôi chưa từng kể với người khác về câu chuyện xung quanh mối quan hệ tình cảm của bản thân, ngoại trừ một mình Điền. Thậm chí đến cả những người bạn còn lại ở Việt Nam như Hải và Vân Thảo họ cũng không biết. Khoảng thời gian trên đất Pháp, quen biết rồi trở thành bạn bè thân thiết với Duy Văn tôi cũng không hề tâm sự về điều này nên anh cũng không hay biết. Kể cả Điền cũng chưa bao giờ nói về chuyện của tôi cho người khác, anh vẫn luôn giữ nó như một lời hứa bí mật giữa chúng tôi. Chỉ là có đôi khi chúng tôi ra ngoài ăn uống vui chơi, ngẫu nhiên có nhiều đêm uống hơi quá chén Điền mới thỉnh thoảng nhắc tới người trong lòng của tôi bằng những câu nói lấp lửng đầy ẩn ý, nhưng tuyệt nhiên anh chưa từng lỡ miệng nói ra tên của Ngài. Tôi nghĩ có lẽ là sau một quãng thời gian dài lắng nghe những lời nói lặp đi lặp lại ấy, Duy Văn đã chấp nối mọi thứ lại với nhau rồi dần dà đoán ra được ít nhiều sự thật của câu chuyện. Chỉ duy nhất một điều, rằng anh sẽ không bao giờ có thể biết được người đó là ai, hay tên của cô ấy.Chúng tôi tiếp tục ngồi vây quanh nhau trong sự ồn ào của nhà hàng nhưng lại im lặng một cách vô hình giữa mọi người với nhau. Tôi nhìn Điền cầm ly rượu trắng của anh chậm rãi uống từng ngụm nhỏ, gương mặt anh đầy suy tư làm cho tôi thấp thỏm. Tôi chợt giật mình khi nhận được một cái vỗ nhẹ nơi bờ vai từ Charlotte đang ngồi bên cạnh mình, cô nhoẻn miệng cười nhưng giọng lại pha lẫn chút buồn buồn "Chúng tôi sẽ nhớ cô lắm!". Mắt tôi bỗng nóng hổi và thấy đầu mũi cay cay. Tôi cũng sẽ nhớ cô và mọi người lắm, tôi đã nghĩ. Và tôi lại cố gắng nuốt xuống cục nghẹn nơi cổ vì không dám để sự xúc động đột ngột trào ra ngoài. Rồi kế đó Céline là người tiếp theo gửi lời nhắn cho tôi, cô ấy nói tôi giữ gìn sức khỏe và tự chăm sóc bản thân, rảnh rỗi đều có thể viết thư tâm sự với cô ấy. Ngay cả Duy Văn cũng bỗng chốc niềm nở trở lại và anh động viên ủng hộ tôi rất nhiệt tình, nhăn nhảu nhắc nhở tôi rằng không được phép quên đi bạn bè đang ở đây. Sau cùng, qua một hồi giữ im lặng với nhiều dòng suy nghĩ viết trên khuông mặt, Điền đã khẽ khàng mỉm cười hiền hoà thấy hiểu, chỉ để lại một câu mà cả đời này tôi sẽ không bao giờ có thể quên được. Anh nói, "Chúc cho em sẽ được hạnh phúc". Lời của anh như một đòn giáng cuối cùng đánh vào tuyến nước mắt của tôi, tôi không còn nhớ khi ấy mình đã khóc bao lâu nữa.Cứ như thế tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, nói lời tạm biệt bạn bè. Tôi thu dọn những món đồ cá nhân cuối cùng, bàn bạc trả lại căn hộ với vẻ nguyên sơ vốn có ban đầu cho người chủ nhà lâu năm, tôi sẵn sàng bỏ lại những thứ đã từng có, những thứ mà tôi gây dựng được giữa Paris hoa lệ, bỏ lại những người bạn đã cùng đồng hành suốt nhiều năm qua, bước lên chuyến xe lửa liên tỉnh với tấm vé nhỏ trên tay ghi rõ ràng những dòng chữ Limoges, Corrèze, Limousin. Địa điểm dừng chân cuối cùng trong hành trình của tôi. Ngày hôm đó là vào mùa tuyết đầu tiên rơi xuống thành phố, trắng xóa, đẹp đẽ nhưng mù mịt.
Chabrignac - Mùa đông, năm 1957.Thời gian sau đó tôi đã di chuyển qua rất nhiều trạm tàu và ngồi trên vô số chuyến xe đường dài, đi qua quãng hành trình vô cùng xa xôi, cuối cùng tôi đã tới được nơi cần đến. Chabrignac, Corrèze, vùng Limousin, thuộc miền Trung nước Pháp. Nơi này chỉ là một thị trấn nhỏ, rất nhỏ, đến mức hầu như không thể tìm kiếm được địa điểm này trên bất cứ tấm bản đồ chỉ đường thông dụng nào. Cư dân ở đây ít ỏi, hơi thưa thớt và hầu như họ chỉ chọn sinh sống trong khuông viên ngôi nhà và trang trại của mình, điều này khiến cho thị trấn khoát lên mình một vẻ cô quạnh bình lặng đến hiu hắt, ngoại trừ khu phố chính trung tâm chỉ nhộn nhịp vào những ngày họp chợ vào cuối tuần. Dẫu vậy con người nơi đây dù sống khá khép kín nhưng lại thân thiện và hoà nhã, họ sẵn sàng dang tay giúp đỡ nếu vô tình thấy người khác đang gặp sự cố bên đường. Tuy nhiên chuyện đó cũng không giúp cho thị trấn bớt đi vẻ quạnh quẻ đìu hiu, thỉnh thoảng chỉ có thể ngẫu nhiên bắt gặp một-hai người qua lại trên phố. Đến nỗi có thể nhận ra được từng cư dân khác nhau và nơi họ sống nếu vô tình chạm mặt họ đủ nhiều lần khi đi loanh quanh trong thị trấn. Có cảm giác thị trấn này gần như bị thời cuộc lãng quên giữa một đất nước đầy rẫy sự lãng mãn và quá nên thơ.Cũng chính tại thị trấn nhỏ bé yên bình này, cách Paris chừng bốn-năm trăm cây số, nơi mà nhiều năm qua Ngài đã chuyển về sinh sống, nơi có chốn để trở về của Ngài.Lâu đài Domaine de la Perche.Người ta hay nói trải nghiệm lần đầu tiên luôn để lại cho con người những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ, từ nhỏ tôi vốn vẫn luôn âm thầm lắc đầu ngán ngẩm vì niềm tin ngớ ngẩn không có cơ sở ấy. Cho tới khi gặp Ngài, tôi mới biết thì ra những gì người ta nói đều là thật đó! Họ chưa từng gạt tôi!Tôi vẫn nhớ như in, lần đầu tiên đứng trước cánh cổng sắt chia làm hai với một cửa lớn mở hai cánh và còn lại là cổng phụ đơn một cánh nhỏ hơn có phần vòm đá trên đầu, quả thực quá khiêm tốn so với địa thế của tài sản nằm phía sau nó. Nhìn xuyên qua cánh cổng mở ra một con đường ô-tô rộng chừng bốn-năm mét và dài ước chừng hơn hai mươi mét được rải một lớp sỏi vườn gọn gàng. Lấp ló không xa là hình dạng của toà nhà chính nằm ẩn mình khuất sau những bóng cây thân gỗ lớn với tán lá xum xuê che phủ một mảng sân rộng lớn.Khi ấy, đứng trước cánh cổng nhỏ nhắn đơn sơ với chỉ vỏn vẹn vài chiếc va-li để sơ xài dưới chân, tôi ngẩn ngơ quan sát một phần của tòa nhà chính rồi lại cúi đầu nhìn chằm chằm vào tấm bảng nhỏ được cố định ngay ngắn trên một cột đỡ của cổng phụ, những chữ viết bị bạc màu có phần bong tróc đi lớp thạch cao vì hứng chịu mưa và nắng, gần như không thể đọc được chữ nếu không ở khoảng cách đủ gần.Số 4, rue de la Basse Perche.Dòng chữ và số ấy về sau này tôi không còn có thể quên đi được nữa.Ngày hôm đó chính là ngày đầu tiên tôi chuyển đến. Khoảnh khắc đôi tay tôi hơi run rẩy vì hồi hộp mà không nhịn được ấn vài lần vào nút gọi chuông cửa, chỉ vài phút ngắn ngủi, ở phía xa trong lớp sương mỏng lơ lửng của tiết trời vào thu, bóng dáng thướt tha của Ngài dần dần hiện ra, trên người khoát lên chiếc váy kiểu Tây thanh lịch và mái tóc đen huyền được búi kiểu cách với nếp uốn xoăn lọn gọn gàng.Hình dáng Ngài xa xa rồi lại gần hơn, gần hơn nữa, cho đến khi người phụ nữ ấy không còn bị lớp sương trắng vây lấy.Tôi bên ngoài và Ngài ở trong, khoảng cách giữa chúng tôi chỉ cách nhau một cách cổng sắt đơn giản nhưng lại hệt như vẫn ở hai thế giới khác nhau. Giây phút này, chỉ cần cánh cổng mở ra và tôi bước vào, khi ấy chúng tôi không còn khoảng cách nữa, cũng không còn bị ngăn cách bởi thời gian nữa. Đêm hôm ấy Ngài đã nói lần này sẽ đợi tôi, và rồi khi tôi đến, Ngài đã ra đón tôi.Cuộc sống về sau này của tôi đều có thể diễn tả bằng những cụm từ vỏn vẹn, ấm áp, hài lòng, yên bình và hạnh phúc.Căn biệt thự của chúng tôi...À! Bây giờ tôi đã có thể gọi nơi này là của chúng tôi, giống như tôi từng ao ước trong tưởng tượng suốt cả đời, một nơi thực sự có thể thuộc về Ngài và tôi. Vào lần đầu tiên tôi trong trạng thái xúc động vào một lúc nào đó vô tình nói ra sự khẳng định ngu ngốc ấy và Ngài đã nghe được, khi đó Ngài không hề mở lời để sửa lại, chỉ tặng cho tôi một nụ cười như đã ngầm chấp nhận nó, về sau Ngài vẫn lặng lẽ nuông chiều cho phép tôi tiếp tục dùng những lời ấy để nói về chúng tôi.Biệt thự của chúng tôi nằm trên một đoạn sườn dốc thoải phía Bắc thị trấn, ở trên một nhánh của đường lớn Perche, cách trung tâm phố chính chỉ khoảng mười lăm phút đi bằng xe đạp. Phía sau khu vực dinh thự là một ngọn đồi nhỏ có cánh đồng trang trại rất lớn cũng là một phần tài sản đi kèm với lâu đài thuộc về sở hữu riêng tư của Ngài.Dọn vào dinh thự chỉ mới một thời gian rất ngắn, nhưng phải thú thực rằng có lẽ tôi đã yêu nơi này mất rồi...Biệt thự Anh Đào, nơi này giống như tên gọi của nó, yên tĩnh, nên thơ, và mang theo một vẻ đẹp ngây ngất thầm lặng giữa quang cảnh thiên nhiên an bình. Mái ngói nghiêng nghiêng cổ kính màu tro, tường gạch nâu xám ám dấu vết của thời gian, những khung cửa sổ gỗ thông với lớp sơn màu trắng sữa được trang trí bằng chậu hoa treo ở nơi bệ cửa. Xung quanh các góc tường là những khóm hoa Cẩm Tú Cầu hồng phấn, xanh trời và tím oải hương mọc thành cụm lớn dùng bức tường rêu phong làm giàn đỡ để vươn cao phát triển, khu vực sân trồng rất nhiều cây bụi lớn và cây bách luôn sinh trưởng mạnh mẽ dù đã vào đông.Toà lâu đài rất rộng lớn, có lẽ một phần tôi lại thích dùng tên gọi dinh thự hơn vì nó mang lại cảm giác ấm cúng và giảm bớt đi phần nào sự cô quạnh của nơi này. Cả gian nhà chính đều là nơi sinh hoạt thường ngày của Ngài, người hầu thì được bố trí ở nơi khác. Khi tôi đến, vốn dĩ tôi đã được sắp xếp cho một gian phòng nhỏ ở khu vực nhà phụ phía sau, giống như những người khác. Nhưng sau đó một quyết định đột ngột khiến cho tôi vô cùng bất ngờ khi nhận được thông báo, thì ra Ngài đã chọn cho tôi một căn phòng nhỏ tiện nghi và ấm áp hơn ở cuối hành lang trong toà nhà chính, nằm cùng dãy với thư viện và phòng làm việc, đặc biệt cách phòng ngủ lớn của Ngài chỉ bằng một góc cua ngắn qua hành lang. Tôi chợt hiểu ra rằng Ngài muốn tôi ở gần đó, không cần cách quá xa nữa.Dẫu vậy, tôi không đến đây để làm chủ nhân, mà tôi đã chọn đến để được làm chủ cuộc đời mình. Dường như khi đã đi qua một quãng đường vòng tròn lớn và gần trở lại nơi điểm bắt đầu, người ta vẫn thường muốn có lại những thứ năm xưa mà họ đã từng có. Tôi cũng vậy thôi, tôi đã đề nghị với Ngài, chọn một lần nữa được trở về là một thợ làm vườn, nhưng lần này tay nghề của tôi đã không còn nghiệp dư nữa!Trong dinh thự ngoại trừ Ngài và tôi, chỉ còn lại hai người hầu trẻ hơn và một người quản gia cũng gần trạc tuổi tôi.Hai cô hầu gái nhìn qua tầm khoảng hai mươi đến đầu ba mươi, một người thì nhiệt tình và vui tính, hơn nữa lại rất thích nói chuyện với mọi người, Élodie Chevrolet. Một Céleste Adorlee thì lại có vẻ trầm tĩnh hơn nhưng vô cùng tốt bụng, vả lại còn rất hào phóng, luôn sẵn sàng giúp đỡ mỗi khi được nhờ. Bọn họ một hướng ngoại và một hướng nội, hai tính cách khác biệt dường như luôn đối lập nhau nhưng họ lại thân thiết như chị em ruột thịt, một điều nữa rằng họ rất nghe lời và cực kì tận tụy với công việc. Nhưng nhắc đến sự trung thành tuyệt đối thì phải nói về người quản gia tinh tường, cậu con lai giữa hai dòng máu Việt-Pháp Renée Chastain-Nguyễn là một người thực sự vô cùng cẩn trọng. Ở anh toát lên một vẻ ổn trọng, nghiêm túc và tinh tế, một tay anh quản lý toàn bộ mọi chuyện lớn nhỏ trong dinh thự một cách ổn thoả, trật tự và nề nếp. Một điều nữa, Renée luôn dành một sự kính trọng tuyệt đối, sự chu đáo nhẹ nhàng và sự ân cần sâu sắc cho nữ chủ nhân của toà dinh thự này. Với những lời bàn tán xung quanh thị trấn và dường như bản thân tôi cũng có thể mơ hồ nhìn thấy mối quan tâm mà anh đặt vào Ngài, và có lẽ bấy lâu anh vẫn luôn yêu Ngài, giống như tôi.Nhưng khi tôi âm thầm nhìn vào Ngài, nhìn sự tương tác giữa Ngài và Renée, ngược lại tôi lại không cảm nhận được sự rung động tương tự mà Ngài dành cho anh. Chưa bao giờ có.Chúng tôi làm quen với nhau rất dễ dàng và nhanh chóng trở nên thân thiết, tôi đặc biệt thân với hai cô hầu nhỏ hơn, có lẽ do nhìn họ khiến tôi nhớ tới những cô gái trước kia ở cùng với tôi, chị Nhung, Hoàng Lan, bé Trang và Ngọc Huyền. Riêng về Renée thì tôi chỉ giữ mối quan hệ ở mức thân thiện và anh cũng có vẻ không có ý định muốn kết thân với tôi cho lắm! Ba người họ đều gọi tôi là Elaine, cái tên tiếng Pháp mà hai người bạn đã đặt cho tôi.Rồi thời gian trôi qua, cứ thế cuộc sống của tôi vẫn tiếp diễn, nhưng giờ đây nó đã tươi sáng hơn nhiều. Tôi quay lại trở thành người làm vườn, tất cả những cây cảnh sân vườn trong khu vực dinh thự đều do tôi phụ trách chăm sóc. Có lần tôi còn tự ý bày trí và vun trồng một vườn hoa hồng giống Red Master Lincoln, loại mà được trồng ở khách sạn La Palace năm ấy. Chỉ trong nửa tháng ngắn ngủi, tôi đã cải tạo khu vườn vốn trống trải đơn điệu trở thành một vườn hoa rực rỡ bằng rất nhiều loài hoa khác nhau, Cẩm Tú Cầu, hoa hồng Master Lincoln màu phấn nhạt, Tulip nhiều màu, Oải Hương tím và Lưu Ly xanh. Dù rằng đã bước vào mùa đông và có những loại hoa không thể nào phát triển nổi trong thời tiết khắc nghiệt này, nhưng những hạt giống vẫn sẽ được ủ trong đất màu mỡ, rồi vào mùa xuân chúng sẽ sinh trưởng và biến thành một vườn hoa rực rỡ hệt như trong chuyện cổ tích.Sinh hoạt thường nhật trong dinh thự cũng khá giản dị, ai làm việc người nấy, đôi lúc sẽ tụ tập nói chuyện thư giãn vào giờ nghỉ trưa. Ngài vẫn giống như năm xưa, đối xử với mỗi một người đều rất tốt và luôn công bằng, nhưng bản thân tôi lại nhận được sự ưu ái âm thầm từ Ngài nhiều hơn những người khác.Ở đây một thời gian sau tôi mới nhận ra một điều, mặc dù Ngài vẫn còn danh nghĩ là Hoàng hậu, nhưng tuyệt nhiên lại có rất ít người quen đến thăm. Nghe Élodie nói lần gần nhất cũng xấp xỉ nửa năm mới thấy có khách qua ghé thăm, vài lần ông Tỉnh trưởng cùng dân biểu địa phương cũng tới chào hỏi vì biết tin Ngài đã chuyển về đây sinh sống. Nói chuyện một hồi lâu tôi mới biết người có lần ghé tới nhiều nhất lại là ông Phạm Khắc Hoè. Céleste kể lại mỗi khi ông Hoè đến đều mang theo thư của ông Hoàng, những lúc đọc qua nội dung viết trong thư thì Ngài đều thở dài bất lực, bọn họ đoán có lẽ ông Hoàng lại ngỏ lời xin tiền từ Ngài lần nữa. Làm ở đây lâu họ cũng chẳng còn lạ gì chuyện ông ấy thỉnh thoảng gửi thư về, nhưng đại đa số nội dung đều có ý nhờ vợ chuyển tiền cho.Biết được chuyện này tôi cũng chẳng đưa ra bình luận gì, bởi tôi cũng y như họ thôi! Lần còn ở Việt Nam ông Hoàng cũng đã từng nhắn cho Ngài một lá thư y hệt, nói là hỏi thăm sức khoẻ và tình hình các con, thực chất là muốn xin tiền vợ. Khi ấy ông Hoàng còn đang vui vẻ ở cùng cô người tình Lý Lệ Hà quý giá của ông ấy xa tận bên Hồng-Công. Đó là bức thư đầu tiên sau nhiều tháng đi công tác không tin tức của ông Hoàng, cũng là bức thư đầu tiên mang theo nội dung đầy xấu hổ và hổ thẹn ấy.Dần dà tôi mới ngộ ra, không phải tự nhiên mà Ngài lại chọn chuyển về Chabrignac. Vùng này luôn tách biệt với thế giới, đường xá khó khăn, lại xa xôi hẻo lánh, từ thị trấn muốn tới thành phố gần nhất là Limoges cũng có cả trăm cây số. Nếu như không phải Ngài muốn thực sự có cuộc sống ẩn dật không màn chuyện đời, tận hưởng những tháng ngày bình yên, thì sao lại cố tình chọn một vùng thị trấn nhỏ cô quạnh biệt lập thế này?Mặc dù trước kia bản thân tôi chưa bao giờ là người thích sự cô quạnh đìu hiu của những nơi tách biệt, không hiểu có phải do con người ta khi có tuổi rồi thì tâm trạng và bản tính thường thay đổi hay không mà những suy nghĩ định kiến của tôi cũng không còn giống như trước nữa. Bây giờ, tuy có đôi khi lại có cảm giác mọi thứ xung quanh sao quá tĩnh lặng, nhưng tôi vẫn rất hài lòng với cuộc sống của mình hiện tại.Tại sao tôi lại không hài lòng? Có điều gì mà tôi còn mong mỏi hơn nữa ở đây? Tôi được ở một nơi tiện nghi nhất, có những người đủ thân thiết để trò chuyện, có một căn phòng nhỏ ấm cúng, và quan trọng nhất, đó là tôi được ở bên cạnh Ngài. Đây là cuộc sống mà tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để có được.Thế giới nhỏ nơi thị trấn đều bắt đầu từ rất sớm. Mỗi ngày tôi đều thức dậy từ khi mặt trời còn chưa sáng và đi ngủ khi trời đã gần nửa đêm. Chăm sóc và cắt tỉa cho khu vườn, dọn dẹp nhà kho chứa dụng cụ làm vườn luôn ngổn ngang sau một ngày làm việc dài. Khi ấy Ngài luôn thức dậy chỉ sau tôi không lâu, Ngài sẽ ngồi trên ghế bành trước lò sưởi ấm áp ở phòng khách, đọc báo và thưởng thức cà phê buổi sáng nóng hổi cùng bánh mì, đôi lúc chỉ là trà và bánh quy.Vào những ngày thời tiết đẹp, Ngài sẽ ra ngồi ở bàn sân vườn uống trà và chăm chú đọc một cuốn sách văn học hoặc thơ ca, có khi là sách chủ đề về tiểu sử danh nhân thế giới hay chỉ là quyển những câu chuyện ngụ ngôn hài hước. Ở gần đó, tôi vẫn chăm chú vào công việc đắp đất đang làm dang dở nhưng có vài giây phút tôi sẽ lén đưa mắt quan sát Ngài, để rồi mỉm cười vui vẻ khi thấy dáng vẻ Ngài đang cười khúc khích vì một câu chuyện nào đó từ cuốn sách trong tay.Những hôm có gió nhẹ khi tâm trạng Ngài đầy cảm hứng và thư thái, Ngài sẽ cùng tôi ra vườn trồng hoa, tỉa lá, chăm sóc cho vườn hồng và bón phân cho chúng. Tôi biết được Ngài yêu hoa cỏ cây lá, nhưng Ngài lại đặc biệt yêu thích vườn hoa hồng mà tôi đã cải tạo. Và lúc như vậy tôi luôn để cho trí tưởng tượng phong phú của mình bay xa, tôi nghĩ rằng những khi Ngài nhìn vào khu vườn ấy thì có thể nào Ngài sẽ ngẫu nhiên nhớ lại cái ngày lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau không? Có lẽ tôi đã suy nghĩ quá nhiều rồi.Ngài còn có những sở thích rất thi vị và nên thơ, có ngày vào buổi sáng hoặc buổi trưa Ngài đều ngồi cắm hoa bên cửa sổ với những khóm hoa được hái từ vườn rồi bày trí chúng khắp nhà. Vào buổi tối tiết trời mát mẻ, Ngài sẽ đột nhiên nổi hứng và say mê chơi dương cầm, còn tôi sẽ lặng lẽ ngồi ở ghế bành gần đó, lắng nghe những âm thanh thanh thoát khi phím đàn rung lên, giai điệu du dương vang vọng trong dinh thự tạo nên một cảm giác vô cùng lãng mạn, thư thái bên cạnh lò sưởi ấm áp. Có vài khoảnh khắc nhất định Ngài sẽ quay lại nhìn tôi và mỉm cười hạnh phúc, những ngón tay tinh tế vẫn ung dung lướt trên phím đàn bằng gỗ màu trắng và đen đã dần trở nên quen thuộc.Tôi và Ngài thường cùng nhau đi vào trung tâm thị trấn để mua sắm hàng hoá và thực phẩm dự trữ đủ cho một tuần. Cả hai tản bộ khắp con phố chính trung tâm, nơi có nhiều cửa hàng nhộn nhịp vào ngày cuối tuần, Ngài sẽ vô tư ghé vào một cửa hàng ngẫu nhiên và chọn mua một thứ gì đó thấy thích. Có lần Ngài đã mua cho tôi một chiếc khăn choàng đan màu vàng nổi bật, vì thấy thời tiết ngày một lạnh hơn và sợ tôi mặc không đủ ấm. Hai người phụ nữ chúng tôi thong thả dạo qua con phố, Ngài thì cầm theo những túi giấy từ cửa hàng quần áo hay tiệm gia dụng trong khi tôi xách những thứ nặng hơn như túi rau quả và trái cây. Thông thường những việc mua sắm lặt vặt này có thể để cho Élodie và Céleste phụ trách, nhưng có đôi lúc Ngài lại ngẫu hứng muốn làm. Ngài nói thích sự thoải mái khi được đi dạo và tự tay chọn mua đồ. Khi đã có đủ những thứ cần thiết, đã đến lúc để quay về dinh thự, và những khi ấy tôi sẽ chở Ngài trên chiếc xe đạp cũ luôn được cất trong nhà kho. Ngài ngồi nghiêng một bên ở phía sau, một tay giữ túi đồ, tay còn lại dịu dàng vòng qua ôm lấy eo tôi, khẽ áp gò má vào lưng tôi, chỉ cách một lớp áo dày.Mỗi ngày thứ bảy cuối tuần, Ngài sẽ dẫn tôi ra phía sau dinh thự, nơi có trang trại rộng lớn nằm dưới chân ngọn đồi xa xa. Chúng tôi làm việc trên cánh đồng từ sáng sớm, cuộn tròn những bó rơm cuối từ vụ thu hoạch cuối cùng vào mùa thu, chăm sóc và kiểm tra số lượng nông sản thu được rồi chuyển tất cả vào nhà kho lớn được xây dựng gần đó. Cuối buổi chiều, sau một ngày làm việc vất vả ở trang trại, chúng tôi mới có được thời gian cho riêng mình. Tôi và Ngài thong thả tản bộ dọc theo dãy hàng rào gỗ màu trắng nơi rìa trang trại, đưa mắt nhìn về phía đàn bò gần trăm con đang được thả rong để ăn cỏ nơi cánh đồng úa tàn vì cái lạnh của mùa đông. Và rồi lúc đó Ngài đã nói rằng nếu cả đời còn lại có được cuộc sống bình yên như thế này thì còn gì bằng. Trong lòng tôi âm thầm tán thành với suy nghĩ ấy.Vào những ngày nghỉ lễ, các con của Ngài đều trở về thăm và ở lại, đôi lúc có đủ tất cả, đôi lúc chỉ hai-ba người về. Các Mệ không sống ở thị trấn, có thể khi còn nhỏ thì là vậy nhưng hiện tại họ đều học tập và làm việc ở Paris, mỗi khi có dịp họ đều sẽ trở về thị trấn thăm và vây quần bên mẹ. Thú thật, tôi chưa từng nhìn thấy quá trình họ khôn lớn, cũng chưa từng chăm sóc cho họ khi còn niên thiếu, người duy nhất tôi gặp trước đó là Mệ Bảo Long lúc ấy vẫn còn được ẵm trên tay. Tôi chưa từng xây dựng được mối quan hệ tốt với họ trước kia, nhưng từ khi tôi chuyển vào, mỗi khi có dịp về chơi họ đều tỏ ra rất thiện cảm với tôi.Chỉ không lâu sau chúng tôi đã rất thân thiết, cả mấy đứa đều gọi tôi là cô Quyên, duy chỉ một mình Mệ Phương Dung lại gọi tôi là Elaine, và tôi cũng gần gũi với cô bé nhất, đến mức hệt như người thân ruột thịt.Nói thật tôi cũng không chắc tại sao Mệ Phương Dung lại gọi tôi bằng cái tên khác so với anh chị em của con bé, nhưng sau này tôi đã có được câu trả lời từ chính mối liên kết giữa chúng tôi. Con bé một phần vì quen với giao tiếp phương Tây được giáo dục từ nhỏ, phần còn lại vì con bé muốn gần gũi hơn, thân thiết hơn với tôi. Phương Dung muốn có một người bạn để con bé có thể tâm sự về nhiều điều thầm kín mà không thể kể với người khác, một người bạn để trò chuyện ngoài anh chị em và mẹ con bé. Tôi đã làm như vậy, tôi đã cho con bé những gì mà nó mong muốn, mỗi khi về chơi và cần người để trò chuyện, tôi sẽ đặt mình vào vị trí một người bạn, im lặng và lắng nghe tâm sự của con bé mà không một lời phán xét.Mấy đứa trẻ đều dành cho tôi một sự tôn trọng nhất định, tôi thương yêu cả năm đứa và chúng cũng đều vô cùng yêu thương tôi. Khi có cơ hội chúng đều vây quanh kể cho tôi nghe về cuộc sống, công việc và chuyện học hành ở Paris. Đặc biệt có những đêm không ngủ được, Mệ Phương Dung sẽ lẻn vào phòng tìm tôi, chúng tôi sẽ ngồi trên giường tâm sự những bí mật chất chứa của cô bé mới vào tuổi mười lăm niên thiếu cho đến khi cô bé quá mệt rồi ngủ quên luôn bên cạnh, khi ấy tôi đều chỉ nhẹ nhàng kéo mền cho con bé và mình rồi cũng đi ngủ. Dần dần cả năm đứa nhỏ đều thích bám theo tôi, nói chuyện và chơi cùng tôi, thỉnh thoảng chúng tôi sẽ chạy quanh ngoài vườn chơi đá bóng hay một trò nào đó khác, trong khi Ngài chỉ ngồi dưới bóng mát quan sát và cười vui vẻ. Cho đến một ngày, khi chúng tôi tụ lại vây quanh trước lò sưởi vào một đêm trời đông lạnh giá, bọn trẻ đã nói với tôi rằng chúng cảm ơn tôi, khi ấy tôi cũng chợt khựng lại vì ngạc nhiên trong lòng. Và rồi chúng nói, "Chúng con thấy được mẹ đang vui vẻ và hạnh phúc hơn nhiều khi có cô ở đây!". Bọn trẻ nào thấy được những dòng nước mắt chảy dài vì cảm động và cảm giác ấm áp nơi ngực trái hiện ra rõ ràng trên khuông mặt được chôn sâu dưới tấm mền bông dày cộm của tôi.Sau đó tôi và Ngài đã cùng nhau đi khắp nơi, mặc dù thích sự ẩn dật yên bình, nhưng nếu có dịp Ngài đều sẽ đi du ngoạn thăm thú nhiều nơi khác nhau, và trong tất cả những lần đó Ngài đều luôn đưa tôi đi cùng. Vào những lúc ngẫu nhiên, Ngài và tôi sẽ đến Paris và ghé thăm các Mệ. Có những lần ghé thăm với thời gian dài hơn một ngày, hai chúng tôi sẽ ở lại căn chung lớn của Ngài ở Neuilly, nằm trên đại lộ Ópera. Đây cũng là một tài sản riêng do ông Nguyễn Hữu Hào đã mua cho Ngài.Thỉnh thoảng có đôi lần Ngài để tôi lại ở chung cư và ghé thăm ông Hoàng nếu biết tin ông ấy cũng đang ở trong thành phố cùng thời điểm đó. Cả hai vợ chồng sẽ cùng đi dạo, ăn tối và đi chơi ở Casino, mỗi lần như vậy có khi họ đều thắng được rất nhiều tiền, và ông Hoàng đều mua cho Ngài rất nhiều quà cùng quần áo. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy Ngài mặc những bộ váy áo đắt tiền cầu kỳ ấy, chúng luôn nằm im lìm ở một góc trong tủ. Sau đó tôi và Ngài sẽ trở về lại Chabrignac, tiếp tục để những tháng ngày bình dị yên tĩnh trôi qua.Ngẫu nhiên vào ngày không thể đoán trước, ông Hoàng đều sẽ trở về thăm Ngài ở đây. Nhưng ông ấy chỉ ở lại một đêm, nhiều nhất là hai đêm, sau đó liền rời đi ngay khi ăn xong bữa trưa. Sau đó cả mấy tháng trời cũng không có tin tức về, gần như cả nửa năm, nhưng tôi thấy Ngài lại chẳng có vẻ để tâm đến điều đó. Tôi thừa nhận, có vài lần bản thân đã thấy được lấp ló trong vạt áo của ông Hoàng là một phong bì ố màu dày cộm, tôi thừa biết rõ bên trong đó là cái gì, trong lòng lại dấy lên một cảm giác khó chịu. Cho đến khi nhìn thấy ông Hoàng bước lên chiếc xe vốn không có ở đó vào đêm hôm trước đang nổ sẵn máy trên đường ô-tô trước cửa, trên xe loáng thoáng một bóng người phụ nữ lạ có vẻ là người Pháp với mái tóc vàng óng cùng đôi mắt màu xanh biển. Giây phút ấy tôi liền biết rằng mình không nên nhìn nữa, cho đến khi tiếng động cơ gầm gừ của chiếc xe đã xa dần khỏi thính giác của tôi.
Paris - Mùa đông, năm 1962.Năm nay hình như khí lạnh tràn về hơi sớm hơn những năm trước, còn tới hơn ba tuần mới đến Giáng Sinh. Vào những lúc như thế này tôi lại có nhiều tâm sự hơn bao giờ hết. Mùa đông, có thể ở một đất nước phía bên kia đại dương như Việt Nam thì chẳng có gì nhiều ngoài sự lạnh cắt da cắt thịt của gió mùa. Nhưng ở bên đầu này của thế giới, mùa đông luôn là mùa mà rất nhiều người đều yêu thích.Đây là khoảng thời gian diễn ra rất nhiều câu chuyện tình yêu lãng mạn nhất, những sự kiện lung linh nhất, những phép màu kì diệu nhất. Người ta yêu thích mùa đông không phải vì nó đẹp, mà cũng có lẽ có một phần đúng. Người ta yêu nó vì những câu chuyện, những kỷ niệm, kí ức cũ gắn liền với mùa lễ hội tưng bừng, có mưa tuyết trắng xóa và đèn trang trí lấp lánh nhiệm màu cùng cây thông Giáng Sinh.Riêng tôi? Tôi cũng thích Giáng Sinh.Kỉ niệm hạnh phúc nhất cũng là mùa Giáng Sinh.Những năm này không biết là do thời tiết ngày càng khắc nghiệt hơn, hay là do khi còn trẻ tôi đã lao động quá cật lực mà tôi thấy sức khoẻ của mình không còn tốt như xưa nữa. Thể chất của tôi ngày một giảm, thỉnh thoảng tay chân có hiện tượng tê rần, hô hấp không đều, và tôi lại còn bị ho cực kì nhiều. Mùa hè còn đỡ, nếu như vào khi trời lạnh thì tình trạng càng kinh khủng hơn nữa. Đôi lúc tôi ho đến khản đặc cả giọng, nóng rát cả lồng ngực, lâu lâu còn bị lên cơn sốt nhẹ. Khi đó tôi nhớ Ngài đã vô cùng lo lắng cho tình trạng sức khoẻ của tôi, Ngài có từng mời bác sĩ đến khám cho tôi và ông ấy nói rằng tôi có triệu chứng của bệnh viêm phổi, nhưng các dấu hiệu chỉ là rất nhỏ, không quá đáng ngại nên ông ta chỉ kê đơn thuốc thông thường cho tôi.Những năm tiếp theo càng tồi tệ hơn, tình trạng của tôi không hề khả quan mà ngày càng nghiêm trọng thêm. Ban đầu tôi còn cố tình che giấu, nhưng dần dà tôi đã không thể giấu được các triệu chứng ngày một trở nặng của mình nữa. Khi ấy Ngài đã nhất quyết không cho tôi làm việc ở ngoài vườn và trang trại nữa, nói rằng công việc vất vả từ sáng đến tận tối mịt thực sự quá cực khổ. Ngài một mực căn dặn tôi nghỉ ngơi trong nhà chính, không cần phải lo lắng việc vườn tược và ngoài trang trại, những thứ đó sẽ có người khác phụ trách. Vậy là cuối cùng tôi cũng bị tước việc, mỗi ngày đều dưỡng bệnh trong nhà chính. Chỉ có điều bản thân tôi đã quen với chuyện tay chân nên cũng chẳng thể nào ngồi yên một chỗ, tôi đã phụ giúp các việc lặt vặt trong dinh, từ nấu ăn đến lau dọn, quét bụi, giặt giũ và một số việc vặt vãnh khác. Lúc đầu Ngài cũng có chút không hài lòng vì tôi cứ không chịu buông lỏng để mình được nghỉ ngơi nhiều hơn, nhưng thời gian sau Ngài cũng đành thở dài bất lực trước sự cứng đầu của tôi.Có rất nhiều ngày, vào lúc đã là đêm khuya, tôi đều bị ho và nghẹt thở, cơn ho dữ dội như những cú đánh dồn dập đập vào lồng ngực tôi và khiến cho hô hấp của tôi vô cùng khó khăn. Lúc đó đã là nửa đêm rồi, mọi người hầu khác đều đã đi ngủ từ lâu ở những dãy phòng bên toà nhà phụ trong khi phòng của tôi nằm tận cuối hành lang nhà chính, một khoảng cách quá xa không đủ để những âm thanh ngắt quãng làm gián đoạn giấc ngủ của họ, nên chẳng có ai thèm để ý đến những tràn ho sù sụ liên hồi của tôi.Rồi bỗng nhiên lần đó, cũng vào những ngày bị cơn ho nhức nhối hành hạ như thế này, cửa phòng của tôi đột nhiên lại mở ra và một luồng ánh sáng vàng ấm êm dịu hắt vào trong phòng. Cánh cửa kẽo kẹt hé mở rồi trong ánh nhìn lờ mờ vì cơn ho, tôi thấy Ngài chậm rãi bước vào phòng, và trên tay Ngài đang cầm theo một cái đĩa nhỏ đỡ lấy ly sứ bên trên có làn khói mờ mờ bốc lên bởi thứ được chứa bên trong.Ngài chậm rãi đi đến bên cạnh giường, nơi tôi đang nằm chật vật quằn quại vì khó chịu, Ngài nhẹ đặt cái đĩa ly lên bàn đầu giường rồi giật dây mở đèn ngủ ngay kế bên. Ánh dáng màu vàng nhẹ hắt vào khiến gương mặt phờ phạc của tôi hiện ra rõ ràng. Ngài nhẹ nhàng ngồi xuống giường rồi dịu dàng áp tay vào trán kiểm tra nhiệt độ của tôi, tôi vẫn nhớ lòng bàn tay mềm mại mát lạnh của Ngài áp vào vầng trán âm ấm của tôi đột nhiên khiến cho cơn khó chịu dường như đã dịu đi phần nào. Tôi nhìn Ngài lấy ly trà ở bên cạnh rồi đưa tới trước mặt mình, không dám bỏ lỡ nên tôi đã cố gắng chống người ngồi dậy dù lúc đó tôi cảm thấy cơ thể mình cực kì nặng và chỉ muốn ngã nằm xuống nệm. Tôi uống ly trà hệt như một người chết khát giữa sa mạc bằng từng ngụm lớn, trong chốc lát ly trà đã cạn đáy. Khi cơn ho gần như dễ chịu hẳn, tôi mới áy náy nhìn Ngài, tôi cảm thấy ngượng ngùng vì đã làm gián đoạn giấc ngủ của Ngài. Và rồi Ngài chỉ cười và trấn an tôi rằng chỉ vô tình giật mình giữa đêm, nghe thấy tiếng ho của tôi lại có chút không yên lòng, không muốn làm phiền những người khác nên đã pha cho tôi ly trà đen và ghé vào xem tình hình. Khi đó tôi không biết là do bản thân quá nhạy cảm hay căn bệnh khiến cho đầu óc trở nên mụ mị mà tôi đã không kiềm được cảm xúc của mình rồi nghẹn ngào thút thít.Kể từ đó, vào những đêm như vậy, Ngài đều sẽ đến, mang cho tôi trà và thuốc. Ngài sẽ ở lại, cả đêm ngồi bên cạnh chăm sóc và trông chừng tôi. Rồi sáng hôm sau, tôi sẽ nhìn thấy Ngài đang ngồi ngủ trên ghế bành lớn bên cạnh với cánh tay gác lên tay vịnh và đầu tựa vào.Đó chỉ là một câu chuyện cảm động ngắn trong hàng ngàn hàng vạn câu chuyện đẹp đẽ của cuộc đời kì diệu của tôi.Và có một kỉ niệm, một ký ức mà trong muôn vàn kiếp sau tôi vĩnh viễn vẫn muốn khắc ghi trong sâu thẳm nơi tâm hồn mình.Tôi còn nhớ lần đó cũng là vào những ngày trước Giáng Sinh. Mọi năm khi kì nghỉ Giáng Sinh bắt đầu, các Mệ sẽ về Chabrignac để đón lễ, nhưng năm nay vì muốn có một sự đổi khác mới mẻ, nên năm nay Ngài quyết định chọn lên Paris để trải qua kì nghỉ đông với các con. Chuyến đi này sẽ rất, rất khác. Lần này chúng tôi có dự định lưu lại Paris tầm cả tháng, lâu hơn rất nhiều so với chỉ vài ngày ở những chuyến đi trước đó. Chúng tôi đã đóng gói hành lý và khởi hành ngay trong đêm vì muốn rút ngắn thời gian, và lần này cũng chỉ có tôi cùng Ngài. Renée sẽ lái xe đưa chúng tôi đến trạm xe lửa ở thành phố Limoges, kế đó chúng tôi sẽ lên chuyến tàu chạy thẳng đến Paris. Dự tính quãng đường này cũng y hệt những lần trước, phải mất tới ba bốn ngày.Khi chúng tôi đặt chân trở lại Paris, lúc đó trời đã khá trễ, tôi và Ngài hơi đuối sức lỉnh kỉnh xách theo va-li ra khỏi nhà ga rồi bắt một chiếc ta-xi để trở về căn hộ trên đại lộ Ópera.Chúng tôi dành ngày đầu tiên để nghỉ ngơi đầy đủ lấy lại tinh thần. Mấy ngày tiếp theo đó chúng tôi bắt đầu thực hiện những mong muốn đã dự định trước đó, chúng tôi ghé thăm căn hộ của Mệ Bảo Long và Phương Liên, cả hai đều gần nơi chúng tôi ở chỉ ngay quận bên cạnh. Sau đó chúng tôi có hẹn gặp mặt Mệ Phương Mai cùng vị hôn phu người Ý Pietro vào ngay cuối tuần ấy. Cả hai chúng tôi cũng có cơ hội thăm nơi ở và cơ quan làm việc của Phương Dung, người hiện tại đang rất hài lòng về cuộc sống của mình.Sau khi nhìn thấy và chắc chắn đời sống của các con đã ổn định, khi ấy Ngài mới dám nghĩ tới những điều mong muốn nhỏ nhoi của bản thân mình. Thời gian ở Paris, chúng tôi đã làm được rất nhiều thứ, dĩ nhiên chỉ có hai người vì Ngài không muốn làm phiền đến các con.Ngài và tôi đã đi thăm thú rất nhiều nơi mới lạ và các địa danh nổi tiếng của thành phố. Từ tháp Eiffel biểu tượng hoành tráng đến Khải Hoàn Môn sừng sững tráng lệ, tham quan cung điện Versailles xa hoa lộng lẫy từng dành cho Hoàng gia Pháp, ghé thăm cung điện Luxembourg uy nghi cổ kính, đi dạo qua nhà thờ Notre-Dame lâu đời, dành thời gian chiêm ngưỡng các tác phẩm nghệ thuật trong bảo tàng Louvre, du thuyền và ngắm cảnh đêm bằng thuyền trên dòng sông Seine thơ mộng.Dường như thời gian là không đủ khi chúng tôi đi thăm thú các địa điểm trong thành phố. Từng nơi đi qua đều để lại cho tôi một cảm giác sững sờ choáng ngợp và thích thú. Thực ra trước kia khi còn sống ở Paris, tôi cũng đã từng rất nhiều lần dạo khắp nơi trong thành phố, mặc dù tôi đã không thể đến qua hết các địa danh nổi tiếng và chỉ ghé qua rất ít nơi trong số đó. Tôi vẫn nhớ rõ cảm giác say sưa khi lần đầu tiên chiêm ngưỡng những kiệt tác kiến trúc của thế giới. Nhưng bây giờ quay trở lại lần nữa, trong lòng tôi lại có một cảm xúc khác, mãn nguyện, xao xuyến, lâng lâng và mơ màng. Bởi vì trái tim tôi đang thấy rất hạnh phúc vì được cùng Ngài quay lại những nơi này, nơi mà trước kia chỉ có một mình tôi lẻ loi đứng giữa hàng ngàn con người xa lạ.Tôi và Ngài dường như luôn có một sự đồng điệu vô hình về tâm hồn, chúng tôi đã cùng nhau quay lại những nơi mà trước kia chúng tôi chỉ đi một mình. Có cây cầu cạnh dòng sông Seine Ngài từng một mình đi dạo, có chuyến tàu tôi đã tự ngồi chạy qua khắp các quận trung tâm, có con phố mua sắm sầm uất khi Ngài dạo chơi ở Paris, có quảng trường nơi tôi từng nhỏ bé đưa mắt ngước nhìn ngọn tháp Eiffel hiên ngang sừng sững. Tất cả những nơi đó đều có kỉ niệm của riêng chúng tôi, là nơi mà cả tôi lẫn Ngài từng đến một mình hay đi cùng một ai đó khác.Nhưng hiện tại chúng tôi đã có nhau.Một buổi chiều có mây xám phủ kín bầu trời, tôi và Ngài như thường lệ đi dạo trong thành phố. Chúng tôi đi mua sắm ở những cửa hàng trên đại lộ chính, sau đó cả hai cùng nhau tản bộ vào một trong những con phố cạnh bảo tàng Louvre.Rue de Rivoli là một con phố lớn, trên đường này có lối vào cửa sau của bảo tàng Louvre nên vì thế nơi này cũng nhanh chóng trở nên nổi tiếng nhờ vào danh tiếng của bảo tàng. Con phố trải dài thẳng tấp gần như thấy được đường chân trời phía xa, con lộ lớn bằng phẳng rộng rãi thoáng đãng, hai bên là dãy cửa hàng lâu đời và toà nhà cổ kính nằm san sát nhau kéo dài đến hết con đường. Vì đang bước vào mùa lễ Giáng Sinh nên nơi này cũng được khoát lên mình một bầu không khí đầy lễ hội, các hàng hiên bằng kính xanh với phần mái vòm cổ điển dựng dọc theo mặt tiền của các cửa tiệm được trang trí bằng những đoá hoa Trạng Nguyên đỏ rực và chuỗi dây lá thông xanh tươi tạo thành vòng lủng lẳng. Mỗi trụ đồng hồ điêu khắc tinh tế dựng ở khắp các ngã tư được quấn quanh bởi dây ruy băng màu đỏ trắng đính nhiều nơ bướm. Các trụ đèn được liên kết với nhau bằng dây ruy băng đỏ và trắng cùng chuỗi lá thông đính hoa đỏ. Cửa chính của các toà nhà và cửa tiệm treo đầy vòng Nguyệt Quế và cây Tầm Gửi. Rất nhiều dây chuông nhỏ treo khắp con đường sẽ kêu đinh đan leng keng khi có gió nhẹ thổi lướt qua. Bên dưới phố là dòng người qua lại tấp nập bằng xe cộ và xe điện hay chỉ đi bộ trên vỉa hè, tất cả những điều này hoà vào nhau tạo nên một quang cảnh đông đúc nhộn nhịp, thể hiện được sự sầm uất phồn hoa của thành phố. Đi dạo trên các vỉa hè được bày bàn và ghế bên dưới những hàng hiên kính, thỉnh thoảng tôi có thể bắt gặp nhiều người đàn ông hay phụ nữ có vẻ như là họa sĩ, nhà văn, thi sĩ hay nhạc sĩ đang ngồi thưởng thức trà chiều, hàn huyên trò chuyện và tìm nguồn cảm hứng để sáng tác. Các cửa tiệm đều đặn những đợt người ra vào không ngừng để mua sắm cho dịp lễ, tiếng người thu ngân sau quầy mừng rỡ chào tạm biệt khách, tiếng nhạc vui tươi từ các nhà hàng hay tiệm bánh kẹo vang vọng khắp phố. Mọi thứ đều cho thấy một bầu không khí Giáng Sinh đang sắp đến gần.Tôi cùng Ngài đi dọc theo con phố, ghé vào nhiều cửa hàng khách nhau và mua rất nhiều thứ, nhìn vào tôi có thể thấy được tất cả đều dùng cho lễ Giáng Sinh. Những vật dụng có màu sắc đỏ và xanh của mùa lễ, những món quà được gói rất tỉ mỉ đẹp mắt bằng giấy gói đầy họa tiết Tuần Lộc và cây thông đính kèm ruy băng nơ bướm vàng hoặc xanh lá. Cả buổi chiều chúng tôi đã phải xách theo rất nhiều túi lớn nhỏ đi hết cả con phố dài mấy trăm mét.Khi đã mua sắm xong, chúng tôi bắt buộc phải quay lại căn hộ để cất đồ vì không thể cứ mang theo cả đống túi đó đi khắp nơi được. Sau khi đã hoàn tất mọi thứ thì trời cũng đã chập chững tối, tia nắng cuối cùng cũng dần đổi chỗ cho những ánh sáng vàng của đèn đường trên phố.Vài ngày nay tôi âm thầm cảm thấy tình trạng của mình có vẻ càng nghiêm trọng. Trước đó khi mới đến Paris, Ngài đã mời một bác sĩ tư nhân đến khám cho tôi, tôi nhìn biểu hiện sa sầm nặng nề của ông ấy luôn hiện ra với cái nhíu mày chặt chẽ mà cũng bồn chồn theo. Sau khi khám qua một hồi lâu, cuối cùng ông ấy nói rằng từ các dấu hiệu của tôi cho thấy triệu chứng đã biến thành bệnh viêm phổi, và đã vào giai đoạn xấu. Bác sĩ chẩn đoán phổi của tôi đang dần suy kiệt, có tạp âm, âm thanh hô hấp đặc và nặng, bệnh trạng có thể chuyển biến nguy cấp bất cứ lúc nào. Hiện tại vẫn chưa có cách nào để chữa trị dứt căn bệnh này, bác sĩ chỉ có thể kê đơn thuốc để ức chế bệnh tình và kéo dài thời gian điều trị. Ban đầu khi biết về tình trạng trầm trọng của tôi, Ngài đều trông rất lo âu. Mỗi đêm khi tôi muốn vào bếp để lấy nước, vô tình đi ngang qua phòng của Ngài, tôi nhìn thấy trong phòng vẫn còn le lói ánh đèn lờ mờ. Khi tôi lấp ló nhìn qua khe cửa vẫn để mở một khoảng nhỏ, tôi thấy Ngài đang quỳ dưới sàn, bóng lưng đơn bạc thẳng tấp, một mực hướng về phía cây thánh giá nhỏ treo trên tường trong phòng ngủ. Ngài chấp tay trước ngực, ánh mắt lay động hướng về thánh giá, có vẻ như Ngài đang cầu nguyện. Lúc đó, tôi loáng thoáng nghe được lời khẩn cẩu run rẩy và ngắt quãng vì chất giọng nghẹn ngào của Ngài. Ngài cầu xin Chúa hãy ban phước cho tôi, giữ lấy bệnh tình của tôi đừng tồi tệ thêm nữa, nguyện tôi sẽ khoẻ mạnh. Ngài quỳ trước thánh giá với hai dòng nước mắt long lanh lặng lẽ rơi trên gò má."Thưa Chúa, xin người hãy rủ lòng thương xót! Xin người đừng mang em ấy rời xa con...".Khoảnh khắc ấy tôi không kiềm được những giọt nước mắt nóng hổi tuôn rơi theo mỗi lời khẩn cầu của Ngài.Mùa đông ở Paris năm nay đặc biệt vô cùng khắc nghiệt. Trời càng về đêm thì thời tiết càng lạnh hơn, lạnh đến mức độ chỉ cần đặt một ly nước trên cửa sổ và vài giây sau liền bị đóng băng, một máy sưởi công suất lớn lắp trong căn chung cư dường như là không đủ để làm ấm nơi này.Hôm ấy cũng là ngày cuối tuần, đêm đó Ngài và tôi đã quyết định đi ăn tối ở bên ngoài. Trời quá lạnh nên cả hai chúng tôi đều phải khoác rất nhiều lớp áo dày khi bước ra khỏi cửa chung cư. Đi trên phố, chúng tôi đã đón đợt tuyết rơi đầu tiên trong ngày, vào thời điểm này mỗi đêm đều có tuyết rơi kéo dài đến tận sáng sớm hôm sau.Chúng tôi trở lại con phố Rue de Rivoli hiện đang ngập trong ánh sáng lấp lánh rực rỡ của các dãy toà nhà hai bên đường. Chọn một nhà hàng tầm trung rồi tiến vào bên trong qua khung cửa gỗ ô kính vang lên leng keng bởi chiếc chuông treo ở ngay phía trên, tôi và Ngài được dẫn đến một bàn trống được xếp bên ngoài ban công trên tầng hai, từ trên này có thể ngắm được khung cảnh người xe nhộn nhịp bên dưới phố.Xung quanh nơi bàn của chúng tôi được trang trí đầy không khí Giáng Sinh với lá thông, hoa Trạng Nguyên, vòng Nguyệt Quế và những hộp quà đầy màu sắc. Trên chiếc bàn tròn cũng được bày trí vô cùng tinh tế bằng chân đế bạc kiểu cổ điển với bên trên là nến dài trắng đã được thắp. Một bầu không khí lãng mạn ấm cúng phủ xuống tôi và Ngài dù nơi cả hai đang ở không có mấy riêng tư cho lắm.Khác biệt với thường ngày, sẽ chọn mặc những bộ váy kiểu Tây của hãng Dior thanh lịch kiểu cách. Hôm nay thì lạ hơn, Ngài đã chọn mặc một bộ áo dài màu xanh lam nổi bật, chính là chiếc áo dài mà Ngài đã mặc khi tôi gặp lại Ngài ở nhà thờ Vincent de Paul tại Đà-Lạt nhiều năm trước. Mái tóc đen tuyền óng mượt được chải chuốt và búi gọn gàng ở sau gáy trông vô cùng sang trọng và cao quý. Đôi hoa tai và chuỗi vòng ngọc trai sáng bóng làm nổi bật nơi cổ mảnh mai của Ngài.Tôi không biết tại sao Ngài lại có hứng ăn mặc đầy Á Đông trong một ngày gần mùa lễ của phương Tây như thế này, nhưng thực sự trong lòng tôi lại rất thích nhìn thấy Ngài với hình dáng này. Người phụ nữ luôn quý phái, đài cát trong trái tim tôi.Ngược lại tôi chỉ ăn mặc đơn giản với quần Âu nâu hạt dẻ và áo sơ mi nữ màu ngà. Nhìn thoáng qua tôi và Ngài giống như hai con người ở hai thế giới khác biệt, nhưng lại vô hình hợp nhau đến kì lạ.Không giống như bữa tối thịnh soạn của tôi và những người bạn nhiều năm trước, Ngài và tôi đã gọi vài món ăn giản dị, những món Pháp điển hình mà bất cứ nhà hàng nào cũng có. Ngài chọn rượu vang đỏ và tôi chỉ lấy một ly nước ấm, vì sức khoẻ không còn cho phép cơ thể tôi tiếp nhận thứ đồ uống mạnh như thế nữa.Ngồi đối diện Ngài, trái tim tôi đập thình thịch liên hồi nơi lồng ngực vì rung động. Tôi muốn dùng từng giây từng phút để ghi nhớ khoảnh khắc quý báu này mãi mãi.Chúng tôi vui vẻ thưởng thức bữa tối ấm cúng, tận hưởng không gian lung linh và lắng nghe những âm thanh náo nhiệt bên dưới con phố cùng những bản nhạc Giáng Sinh vui tai ngân vang. Dù không có gì gọi là quá sang trọng, chỉ có bữa ăn đơn giản, một nhà hàng bình dị, nhưng đó chắc chắn là một buổi tối tuyệt vời nhất trong cả cuộc đời tôi.Sau khi dùng bữa tối, Ngài và tôi quyết định đi tản bộ một chút. Chúng tôi đi dạo khắp các con phố đông đúc nhộn nhịp về đêm gần đó, nhìn ngắm những ánh đèn trang trí lung linh dưới bầu trời đêm tuyết rơi lất phất. Tôi và Ngài ngồi trên xe điện băng qua các quận khác nhau và chiêm ngưỡng vẻ đẹp về đêm của thành phố. Cuối cùng chúng tôi quyết định dừng lại ở trước toà tháp Eiffel.Ngài và tôi đi dọc theo khu vực quảng trường rộng lớn, có rất nhiều người cũng đến đây vui chơi vào buổi tối. Những cặp đôi sánh vai nhau đi dạo, những đôi vợ chồng nắm tay âu yếm, các nhóm thanh thiếu niên vui vẻ cười đùa. Khung cảnh quảng trường quả thực rất sinh động và huyên náo.Sau khi tản bộ được một lúc, chúng tôi tìm được một chỗ ở góc xa và ngồi xuống, từ nơi này có thể quan sát toàn cảnh quảng trường rộng lớn bên dưới và toà tháp Eiffel trước mặt.Đưa mắt ngắm nhìn tháp Eiffel hùng vĩ được rọi sáng lấp lánh bằng những cụm đèn pha công suất lớn. Tôi biết Eiffel luôn mang một vẻ đẹp tráng lệ của nó, nhưng khi dưới trời đêm và tuyết trắng rơi lất phất, toà tháp lại có một vẻ đẹp lung linh và huyền bí như chính lịch sử của nó. Có rất nhiều cảm giác dâng lên trong lòng tôi lúc này, những cảm xúc mà tôi cũng không biết lý giải như thế nào vì chúng quá choáng ngợp, rung động và đầy ấp.Tôi hít vào những làn gió mát, khí lạnh tràn vào phổi khiến tôi không ngừng ho khù khụ, khản đặc cả giọng. Ngài ngồi bên cạnh cứ đưa tay vuốt dọc tấm lưng run rẩy vì ở trong thời tiết giá lạnh của tôi, muốn giúp làm dịu cơn ho của tôi. Lồng ngực tôi đau nhói, thắt chặt, mồ hôi lạnh ẩn hiện trên vầng trán lạnh buốt, những mảng đờm nhớp nháp nơi vòm họng, hô hấp nặng nhọc và ngắt quãng. Một hồi lâu sau khi cố gắng bình tĩnh và hít thở, các triệu chứng của tôi mới dịu bớt đi ít nhiều.Tôi và Ngài tiếp tục ngồi ở đó qua từng phút, im lặng bên cạnh nhau, chiêm ngưỡng toà công trình vĩ đại của thế giới và là biểu tượng lãng mạn của kinh đô ánh sáng.Rồi bỗng nhiên tôi nghe giọng Ngài cất lên giữa không gian rộng lớn."Ngày mai là sinh nhật của em rồi phải không?".Tôi quay qua nhìn Ngài, tròn mắt, mím môi hơi ngẫm nghĩ rồi gật gật đầu."Hình như là vậy, em cũng gần như quên mất!".Ngài khẽ nghiêng đầu nhìn tôi, biểu cảm có chút không hài lòng nhưng rồi rất nhanh bị thay thế bằng một nụ cười hiền hoà."Vậy năm nay em muốn có quà gì?".Tôi vờ suy nghĩ, sau đó lại khẽ cười tinh nghịch pha lẫn những tiếng ho nhẹ."Ở tuổi này mà vẫn còn được nhận quà hả? Nhưng em cũng không biết mình muốn gì nữa, vì em đã có tất cả rồi"."Không cần phải trả lời gấp vậy đâu, ta còn cần chuẩn bị nữa".Tôi cười khúc khích, hơi vuốt ngực để giảm bớt sự căng đầy của buồng phổi."Để xem nào?". Tôi híp mắt, như đang tính toán trong đầu, vài giây sau liền mở lời đáp lại. "Một chiếc khăn choàng mới thì sao?".Ngài nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên, và tôi thấy hình như Ngài đang có điều gì muốn hỏi, nhưng tôi ngay lập tức đoán được trước."Em rất thích cái khăn màu vàng đó, nhưng mà nó sờn hết rồi, lại còn có chỗ bị rách nữa!". Tôi bỉu môi giải thích.Ngài bật cười vì vẻ trẻ con của tôi, lắc đầu thích thú."Được rồi, ta cũng nhìn thấy giống như em nói".Ngài bình ổn lại, nhìn tôi với ánh mắt dịu dàng tha thiết."Vậy quyết định nhé? Một cái khăn choàng mới cho ngày sinh nhật và một món quà Giáng Sinh"."Là gì vậy?". Tôi tò mò hỏi.Ngài ấn ngón trỏ lên đôi môi hồng hào mỏng manh, và một tiếng suỵt dài phát ra."Bí mật!".Sau đó Ngài liền quay mặt đi không nhìn tôi nữa, còn tôi thì vẫn tò mò nhưng lại thở dài chán nản, chợt cả hai đều cùng cười khúc khích. Ngồi ở quãng trường một lúc lâu, đã đến lúc phải quay về rồi.Tôi và Ngài lên xe điện để về lại căn hộ trên đại lộ Ópera nằm giữa quận Louvre và quận Bourse. Lúc này đã gần nửa đêm, ngoài đường ngoại trừ những chiếc ô-tô thỉnh thoảng chạy qua, còn lại chẳng có lấy mấy người trên phố.Chúng tôi vội vã mở cửa và đi vào trong không gian ấm áp của căn hộ, xoa xoa tay cố gắng xua đi cái lạnh đóng băng của trời tuyết bên ngoài. Tôi đứng treo áo khoác ở cạnh cửa trong khi Ngài đi tới máy sưởi và điều chỉnh nhiệt độ trên bảng nút.Tôi lặng lẽ đi vào bếp và pha một bình trà nóng, tôi biết Ngài không mấy thích những thức uống đậm vị sữa như ca cao nóng và luôn nói nó có hương vị tuy ngon nhưng lại quá nồng so với bản thân. Bỗng một cơn đau nhói lại đột ngột ập đến siết chặt lấy ngực trái của tôi, khiến cho hơi thở của tôi bị nghẹn lại. Tôi lảo đảo ngồi gục xuống ghế ở bàn ăn, cúi gầm mặt và ôm lấy ngực, mảng áo ở đó cũng bị tay tôi vò đến nhàu nhĩ. Tôi ngậm chặt môi, cố gắng hết sức bình sinh đè xuống những tiếng ho khù khụ trong cổ họng khiến chúng nghe đặc và trầm. Cảm thấy một luồng hơi nóng xộc thẳng vào não mình, tầm nhìn choáng váng, tay chân như mất hết sức lực tê rần buông thõng xuống. Một lần nữa tôi cố gắng bình tĩnh lại, hít thở bằng cả mũi và miệng, hớp từng hơi ô-xi như muốn níu lấy sự sống. Qua một hồi vật vã cuối cùng tôi cũng thoát được khỏi trạng thái như sắp ngất xỉu ấy, cả cơ thể tôi uể oải mệt nhoài, buồng phổi căng cứng tức ngực, hơi thở nhẹ đến mức chẳng thổi bay nổi một tờ giấy.Cảm thấy mình đã nán lại quá lâu, tôi không muốn khiến Ngài nghi ngờ hay lo lắng, nên vội vàng sốc lại biểu hiện rồi lấy đồ rời khỏi phòng bếp. Bưng khay trà nghi ngút khói đi vào phòng khách, tôi thấy Ngài đang ngồi ở ghế sô-pha dài đặt trước lò sưởi đốt củi, hoa tai và vòng cổ cũng đã được cởi ra bỏ lại trên ngăn tủ kế bên. Tôi chậm rãi bước lại gần, để khay xuống bàn nhỏ gần đó rồi lấy một ly trà nóng đưa cho Ngài. Ngài nhận lấy rồi từ tốn kê bên môi uống một ngụm và khẽ thở dài mãn nguyện.Tôi chầm chậm ngồi xuống ghế, ngay bên cạnh Ngài, giữ im lặng, những dấu hiệu ban nãy vẫn còn nán lại làm cho cả người tôi mụ mị lờ đờ. Ngài nhẹ nhõm đặt ly trà xuống nhưng khi ly sứ vừa chạm mặt gỗ thì phía sau đã vang lên tiếng gõ cửa dồn dập khiến cho cả hai đều giật mình quay phắt lại.Cả hai đều cảm thấy kì lạ vì giờ này đã gần giữa khuya, bình thường sẽ không có ai đến tìm vào lúc đêm hôm khuya khoắt như vậy.Tiếng gõ càng lúc càng dồn dập, cảm nhận được sự gấp gáp của người phía bên kia, tôi liền đứng dậy và bước tới mở cửa, Ngài ở ngay đằng sau.Cánh cửa căn hộ bật ra để lộ một thanh niên trẻ người ngoại quốc dáng vẻ có phần bồn chồn và vội vã, khi thấy chúng tôi trên mặt cậu liền hiện ra vẻ nhẹ nhõm khôn xiết nhưng vẫn mang nhiều phần nghiêm trọng.Lúc này Ngài đã đi tới cửa, tôi đứng nép qua để Ngài đối diện với cậu thanh niên trẻ."Cậu tìm ai sao? Có chuyện gì không?".Chẳng kịp để lời nói của Ngài có khoảng nghỉ, người thanh niên đã vội tiếp lời bằng ngôn ngữ tiếng Pháp, giọng nói gấp gáp và ngắt quãng vì hơi thở hổn hển, hình như là đã phải chạy một quãng đường dài để tới đây."Thưa bà! Có phải là mẹ của Phillippe sống ở đây không?".Tôi thấy biểu cảm của Ngài có vẻ cẩn thận nhưng Ngài cũng lên tiếng đáp lại ngay."Là tôi"."Thật tốt! Làm ơn thưa cô! Cô phải đi cùng tôi ngay bây giờ!".Tôi nhìn người thanh niên trẻ thở phào một hơi khi biết Ngài là người cậu cần tìm nhưng lập tức lại trở về bộ dạng vội vã ban đầu và yêu cầu Ngài mau chóng đi cùng cậu ta. Câu thanh niên với giọng Pháp đặc thù liên tục nói không ngừng nghỉ, và qua nhiều năm thông thạo tôi có thể hiểu rõ nội dung đoạn hội thoại điên cuồng của họ. Với câu nói trước đó của người thanh niên, tôi đã biết người tên Phillippe được nhắc đến là ai, và cậu đang giải thích lý do đến gõ cửa vào giữ khuya thế này. Cậu thanh niên nói rằng người bạn của cậu ta đã gặp tai nạn xe trên đường và hiện đang được chuyển vào bệnh viện thành phố, cần có người thân đến để hoàn tất một số thủ tục bàn giấy, cho nên cậu ta mới tìm đến đây. Hai người trao đổi qua lại bằng tiếng Pháp trôi chảy và rồi tôi nhìn thấy thái độ càng lúc càng lo lắng của Ngài. Sau một hồi nói chuyện, Ngài để người thanh niên đợi ở cửa và liền nhanh chóng đi vào phòng ngủ, tôi hoang mang đuổi theo tới đúng lúc thấy Ngài đang lấy một số tiền bỏ vào ví cầm tay.Tôi lặng lẽ đi tới bên cạnh nhìn Ngài với đôi tay run rẩy đang cố nhét tiền và vật dụng vào ví. Tôi mím môi, hơi thở dần nặng hơn, lúc này tôi mới bối rối cất giọng hỏi han."Tình hình có nghiêm trọng lắm không?".Lúc này Ngài đã bỏ hết đồ vào ví và đậy kín. Ngài đứng dậy, bước đến trước mặt rồi nắm lấy bắp tay tôi, tôi cảm nhận được cái siết chặt run run của Ngài."Ta cũng chưa biết được nhiều, phải tới đó mới có thể chắc chắn".Tôi rụt rè gật đầu, một sự bồn chồn dâng lên trong bụng. Ngài nhìn tôi với ánh mắt lo lắng có phần bất lực, thả lỏng và xoa xoa bắp tay tôi nơi mà Ngài vừa siết lấy, thở dài một hơi run rẩy."Ta đi thăm Bảo Thăng, có thể sẽ về khá trễ. Cũng khuya rồi, em không cần phải đợi ta, cứ đi ngủ trước".Tôi cũng chẳng dám trái lời, chỉ gật gật đầu như đã hiểu ý. Sau đó Ngài đưa tay vỗ nhẹ vào bên má tôi rồi vội vàng bước qua đi ra ngoài, rời đi cùng cậu thanh niên vừa đứng đợi ở cửa.Nhìn theo bóng dáng Ngài khuất khỏi hành lang vắng vẻ rồi biến mất ở lối xuống cầu thang, tôi nhẹ nhàng đóng cửa lại, quay trở vào trong.Tôi đi tới và ngồi xuống ghế dài, chậm rãi cầm lấy ly trà còn ấm và nhấp một ngụm lớn, hơi nóng tràn đầy buồng phổi lập tức dễ chịu.Ngồi trước lò sưởi đang nổ tanh tách, nhìn những ngọn lửa tham lam nuốt lấy khúc củi sần sùi khô ráo, lúc này trong lòng tôi bỗng có rất nhiều cảm xúc. Những kí ức đột nhiên ùa về, bồi hồi, day dứt, bối rối, nhớ nhung.Từng dòng từng dòng kỉ niệm tràn ngập tâm trí đang dần trở nên lờ đờ của tôi. Những ngày đầu tiên trở thành sinh viên ở Đà-Lạt, lần đầu tiên gặp Ngài đêm hôm ấy, quãng thời gian thanh xuân đẹp đẽ đầy trải nghiệm, nỗi nhớ mong mỏi về Ngài những năm xa cách. Giai đoạn sung sướng được ở bên cạnh Ngài trong dinh, cuộc sống đầy rẫy biến động giữa thời chiến loạn sau khi Ngài rời đi, quãng đường đơn độc lạc lõng giữa thành phố Paris hoa lệ, rồi sau cùng là thời gian hạnh phúc nhất vì đã được ở bên cạnh Ngài và biết rằng sẽ không còn bị chia cắt nữa. Tất cả những dòng hồi tưởng như một cuộn phim chầm chậm chảy qua tâm trí khiến tôi mãn nguyện mà nhoẻn miệng cười vì cảm thấy ấm áp và hạnh phúc tràn đầy.Tôi ngồi ngây ngẩn ở sô-pha rất lâu, rất lâu, đến nỗi tôi cũng không còn nhớ được thời gian nữa. Ngài đã dặn không cần phải đợi, nhưng trong thâm tâm tôi lại muốn đợi Ngài trở về. Ngài đã đi quá lâu, tôi ngồi đợi cũng cảm thấy có chút buồn chán. Tự lấy vài cuốn sách trên giá rồi lặng lẽ ngồi đọc, không gian xung quanh tôi lúc này yên tĩnh đến lạ. Phòng khách chìm trong bóng tối vì thiếu đèn, nguồn sáng le lói duy nhất đến từ lò sưởi trước mặt, chỉ đủ để chiếu sáng một góc nhỏ. Mọi thứ đều tĩnh lặng, chỉ có âm thanh vo vo của máy sưởi đang hoạt động và tiếng nổ lách tách từ lò sưởi đang cháy. Rồi dần dần, đầu tôi cứ ong ong, hai mắt cụp xuống nặng trĩu, có lẽ tôi buồn ngủ rồi thì phải?Đóng cuốn sách lại tùy tiện bỏ lại trên ghế dài, tôi chầm chậm lê bước đi về phòng của mình. Thả người nằm xuống giường, lúc này toàn thân tôi đều thấy rất nặng, một cảm giác nặng trịch, nơi ngực trái lại bắt đầu dấy lên cơn đau nhói nhưng không còn dữ dội mà chỉ âm ỉ nhức nhối. Tầm nhìn trở nên mờ đục mơ màng, tay chân không còn sức lực, cảm giác uể oải mỏi nhừ, dường như tôi không thể khống chế được cử động của bản thân nữa.Chợt, tâm trí tôi muốn làm một điều gì đó, cảm thấy có một sự thôi thúc tôi cần phải làm một điều gì đó! Tôi cố gắng gượng người dạy lê qua mở ngăn kéo tủ đầu giường, chầm chậm lấy ra một cây viết mực và tập giấy trống. Cơn ho một lần nữa ập đến kéo theo những âm thanh khù khụ đặc sệt trầm khàn, hai buồng phổi cũng thấy căng đầy rồi tê rần rần.Tôi run run viết vào trong tờ giấy trống trước mặt bằng nét chữ nghiêng nghiêng, dù đã cố gắng viết cho đẹp nhưng nét chữ vẫn hiện rõ sự nguệch ngoạc đứt gãy. Phải mất gấp đôi thời gian bình thường tôi mới có thể hoàn thành dòng chữ ngắn gọn. Tôi cẩn thận đặt cây bút và tập giấy lên tủ cạnh giường, rồi ngã xuống giường nằm thở hổn hển những hơi thở nông và nhẹ hẫng.Ho khẽ vài tiếng trầm, tôi chầm chậm kéo mền qua vùng bụng, đầu lùng bùng nặng nề chìm vào gối bông mềm mại. Hơi thở dần dần nặng rồi trở nên nhẹ hơn, cơn đau nhức nơi ngực trái cũng từ từ tan ra, tay chân không còn cảm nhận, toàn thân được bao phủ bởi cảm giác thoải mái êm ái. Đôi mắt phủ đầy sương, tôi lờ mờ nhìn thấy bóng một người phụ nữ đi giữa đồng cỏ xanh biếc bạc ngàn trải dài đến chân núi ở xa xa. Nhìn thấy cô ấy ngồi đọc sách giữa vườn hoa đầy màu sắc như trong cổ tích. Tôi mỉm cười đáp lại nụ cười dịu dàng hạnh phúc của cô ấy, rồi từ từ gương mặt của cô ấy xua đi lớp mây mù và dần hiện ra.Là Ngài.Ngài đang cười với tôi, rất ấm áp và vô cùng hạnh phúc.Đôi mắt tôi khép lại, một hơi thở mãn nguyện, để cơ thể chìm vào trong giấc ngủ nhẹ nhõm.Còn dòng chữ mà tôi để lại?Nó viết. "Hẹn gặp lại Ngài ở Domaine de la Perche".
_ Kết thúc _