[BH] [EDIT] QUY TỰ DAO - LỤC NGỘ

CHƯƠNG 3: TÌNH NGHĨA SƯ ĐỒ



Ngày hôm sau là ngày Hưu Mộc.

Triều Tấn có lệ cứ mười ngày công được nghỉ một ngày, tức là vào mùng mười, hai mươi và cuối tháng, mọi người được nghỉ ngơi.

Ngoại trừ các kỳ nghỉ lễ dài ngày như Tiết Hàn Thực, Đoan Ngọ, Trung Thu, Đông Chí, Nguyên Đán, Thượng Nguyên và Vạn Thọ, thì chế độ ngày Hưu mộc hiện nay đã nới lỏng hơn nhiều so với các đời trước.

Phố Sa Mão, con phố được đặt cái tên ấy từ thời Hiển Tông. Thời ấy, phố này có một cửa hàng của một thương nhân họ Lý chuyên tu sửa mũ quan và chế tác trâm cài tóc cho phụ nữ, tay nghề vô cùng điêu luyện, vật phẩm vô cùng tinh xảo. Sau đó, trải qua các triều Anh Tông, Cao Tông, Tuyên Tông cho đến Thành Tổ, số quan lại ngày càng tăng lên, các phủ đệ được xây ngày càng đồ sộ và vượt quá quy chuẩn cho phép. Thành Tổ bèn sai người khoanh vùng mấy con phố, chỉ định xây dựng phủ đệ theo quy cách để cung cấp làm nơi ở cho các quan viên triều đình tại đất Yến Kinh, và phố Sa Mão chính là một trong những dãy phố như thế.

Phàm là thương nhân, đa số sẽ đều có tư duy tinh tường, vừa giỏi tính toán vừa biết chớp thời cơ. Ngày thường, họ bày sạp buôn bán ở khu chợ sầm uất, đến ngày quan lại nghỉ Hưu mộc, họ lại mang hàng đến các ngã tư tấp nập trên phố các con phố như phố Sa Mão để bán từ sớm, và thường chỉ trong vòng một nén hương là đã có thể kiếm được một khoản tiền kếch xù từ mấy vị đại nhân mặt to tai lớn. Vậy là, tính ra, kiếm được nhiều hơn hẳn ngày thường.

Ngõ Điềm Thủy cách phố Sa Mão không xa nhưng cũng chẳng gần.

Đường Từ rời khỏi nhà từ sáng sớm, ấy thế mà giờ mới thong thả đến ngã tư phố Sa Mão, tất có ẩn tình khác. Nàng ngẩng đầu nhìn mặt trời trên cao, trong lòng lại có tính toán, cũng không hề vội vàng mà lại thong thả ghé vào các quầy hàng ven đường, lúc thì bốc một nắm quả gia khánh, lúc thì nếm thử một chén trà trái cây, chốc thì sờ con rối bằng vải, hồi lại nhắm đá thử cầu tre, nhưng một đồng bạc cũng tuyệt nhiên không móc ra.

"Kẹo mạch nha đây! Bán kẹo mạch nha đây!"

Người bán hàng rong rao một hồi, thấy một thiếu niên tướng mạo đẹp đẽ khác thường dừng lại trước sạp, rồi lại tinh mắt thấy miếng ngọc đeo trên thắt lưng nàng thì càng rao bán nhiệt tình: "Công tử, công tử! Mười văn một cái, không ngọt không lấy tiền!"

Đường Từ vốn là thấy cái mũi đỏ như men rượu của hắn trông thật ngộ nghĩnh, nên mới nhìn thêm vài lần. Lúc này, nàng cười mà chỉ vào cô gái bán kẹo hồ lô ở bên cạnh:

"Nếu ta muốn nếm vị ngọt thì ăn kẹo hồ lô chẳng phải là chắc chắn sẽ ngọt hơn sao? Kẹo mạch nha đặc sắc ở việc làm sao để làm ra cái hình dạng cầu kỳ sống động, ngươi là người buôn bán mà ngay cả rao hàng cũng không biết rao sao cho đúng trọng điểm."

Ban đầu, người bán hàng rong tưởng nàng là một công tử ăn chơi lêu lổng, ham cái mới, thích hưởng lạc. Bây giờ bị nàng chê bai như thế, hắn bỗng lại nổi chút tự kiêu của người nghệ nhân, bèn lau lau cái mũi đỏ, rút ra một cây kẹo mạch nha mà hắn ưng ý nhất trên giá gỗ rồi đưa đến trước mặt nàng mà khoe: "Sao lại không sống động? Công tử nhìn xem đi, mỹ nhân này là do ta thổi đấy! Người khác mà có đưa vàng cho ta, ta cũng không bán đâu!"

Kẹo mạch nha bị Đường Từ cầm lấy trong chốc lát, người bán hàng rong cũng chỉ nghĩ nàng thích nên xem, trong lòng xiết bao tự hào phấn khởi. Lại thêm một lúc, chỉ thấy nàng cầm cây kẹo mà ngắm nghía thật kĩ, khóe môi nở một nụ cười khó hiểu, thế rồi gọi cậu trai đi theo sau tới lấy ra mười văn tiền.

Trước khi đi, nàng quay đầu lại, nhàn nhạt nói rằng: "Khăn choàng và trâm cài làm rất khéo, nhưng ngươi nên chấm một hạt mè đen dưới mắt của cô ấy. Người này, dưới đuôi mắt phải còn có một nốt ruồi lệ."

Người bán hàng rong nghe vậy thì miệng liền há ra vì kinh ngạc, há đủ lớn đủ để nuốt chửng một xâu kẹo hồ lô ở sạp bên cạnh.

Mãi một lúc lâu hắn mới hoàn hồn, vừa đuổi theo vừa la lớn: "Đó là bảo bối trấn sạp của ta, mười văn tiền làm sao mà đủ!"

Bóng người chen chúc, phố xá tấp nập, làm sao còn tìm thấy dấu vết.

———

"Tiểu ca ca!"

Trước phủ Lại bộ Thượng thư, một cô bé bốn năm tuổi mặc váy dài màu hồng phấn vui vẻ gọi to, tay chân nhỏ nhắn cố giãy ra khỏi vòng tay của vị quản gia đang bế mình.

Đường Từ thấy thế, vội bước thật nhanh đến đón cô bé vào lòng, đưa cây kẹo mạch nha cho cô bé, lại chỉ cách nắm chặt tay lại.

Quản gia của phủ, Trần Sơn cung kính cúi chào nàng, nghiêng người đưa tay dẫn đường: "Lão gia đang chờ trong sảnh, mời ngài đi theo tiểu nhân."

"Trần Quản gia cứ lo việc riêng, ta đã quen đường đi lối lại trong phủ cả rồi, sẽ không lạc đâu." Đường Từ lại liếc nhìn Ngư Đồng: "Ngươi cũng đi giúp việc đi, đừng có lười biếng."

Trần Sơn biết nàng nói một sẽ không có hai, xưa nay hầu hết việc riêng thì sẽ không cho phép người khác xen vào, bèn đáp một tiếng rồi cáo lui ngay. Ngư Đồng vâng vâng dạ dạ rồi đi theo Trần Sơn, cúi đầu rũ mắt khom vai, một dáng vẻ hoàn toàn không giống ngày hôm qua. Chỉ là, hắn thấy thái độ của quản gia đối với Đường Từ thì lại càng thêm nghi hoặc trong lòng.

"Ngoài cổng gió lớn, lần sau đừng chờ ở đó nữa." Đường Từ ẵm Tần Dung Nguyệt lên, để cô bé ngồi vững trong lòng mình, rồi nhướn mày cười nói: "Mới có chưa bao lâu mà đã cao lớn cứng cáp hơn nhiều rồi. Lần sau đến, e rằng ta bế không nổi muội nữa."

Tần Dung Nguyệt một tay nắm chặt kẹo mạch nha, một tay ôm lấy cổ Đường Từ, từ lúc bước vào cổng lớn đến giờ đôi mắt của cô bé chưa từng rời khỏi khuôn mặt nàng.

Lúc này, nghe nàng nói lần sau bế không nổi mình nữa mới vội vàng rút cây mạch ra ra khỏi khuôn miệng nhỏ nhắn, lo lắng nói: "Sao lại thế ạ! Quản gia thúc thúc lớn tuổi như vậy rồi còn có thể bế muội đi xem đèn lồng mà!"

"Quản gia thúc thúc của muội còn khoẻ mạnh lắm." Đường Từ vừa nói vừa rảnh tay nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của cô bé, đưa cây kẹo vào miệng, dịu dàng dỗ dành: "Ta vừa trêu muội đấy thôi. Muội có lớn lên bao nhiêu tuổi, ta cũng vẫn bế được. Mau ăn kẹo đi, phải giấu thật kỹ, đừng để cha muội nhìn thấy, biết chưa?"

Trẻ con tuổi này dễ dỗ dành nhất. Tần Dung Nguyệt cười tít mắt, gật đầu, đôi mắt to tròn lấp lánh, nhíu mày nói: "Tiểu ca ca, muội không muốn lớn."

"Tại sao?" Đường Từ vừa bế cô bé vừa đi vòng qua một khúc hành lang, bước chân đã chậm lại.

Tần Dung Nguyệt bĩu môi lẩm bẩm: "Vài ngày trước, có một tỷ tỷ luôn chăm sóc muội bị đuổi ra khỏi phủ. Muội và tỷ tỷ ấy rất mến nhau, tình cảm rất tốt, muội khóc đòi tỷ tỷ ấy quay về. Ban đầu cha không muốn để ý đến muội, nhưng sau thấy muội khóc quá bèn bế muội lên nói rằng tỷ tỷ ấy và một người đàn ông đã ôm nhau, làm bại hoại phong hóa, không thể giữ lại ở trong nhà được nữa."

Dù là hạng thông minh, Đường Từ cũng khó mà đoán được suy nghĩ của trẻ con. Nàng hỏi thêm: "Rồi sao nữa?"

Chuyện này thì liên quan gì đến việc không muốn lớn lên?

"Muội vừa nghe xong lại càng khóc hơn, vì muội nghĩ nếu lần sau huynh đến bế và ôm muội thì chẳng phải muội sẽ bị cha đuổi ra ngoài sao? Cha mới nói, muội vẫn còn là trẻ con, đợi lớn thêm vài tuổi nữa thì huynh sẽ không thể bế như thế này được đâu."

Tần Dung Nguyệt nhớ lại ngày hôm đó vẫn thấy vô cùng ấm ức, giờ kể lại, trong mắt lại rưng rưng nước mắt như chực trào ra.

Có lẽ lúc đó sư phụ cũng bị cô bé chọc cười, thuận theo ý nghĩ của cô bé mà trêu đùa vài câu, không ngờ cô bé lại tin là thật rồi buồn đến như vậy.

Đường Từ tựa trán vào trán Tần Dung Nguyệt, chân thành nói: "Sẽ không đâu, đợi muội lớn lên, chỉ cần ta còn bế nổi thì ta sẽ không dắt tay muội đi. Mà nếu phải dắt tay muội đi thì ta sẽ không để muội phải đi một mình. Đừng buồn nữa."

Cô bé vừa nghe xong lập tức chuyển từ khóc sang cười, ôm lấy Đường Từ hôn tới tấp vào má nàng, như ước gì có thể dùng nước bọt của mình rửa mặt cho nàng một lần nữa.

Cuối cùng, cô bé còn sờ sờ xoa xoa cằm Đường Từ, cười khúc khích: "Tiểu ca ca, da huynh mịn màng thật đấy! Dưới cằm cha có một hàng râu nhỏ, mỗi lần ông ấy áp vào má muội râu đâm vào mặt đau lắm!"

Đường Từ xoa đầu cô bé, chỉ cười không nói, vô cùng cưng chiều.

Đến trước chính sảnh, ngoài cửa đã có ma ma chờ sẵn. Ma ma cúi chào Đường Từ rồi đón Tần Dung Nguyệt đến một sảnh phụ để dùng bữa riêng.

Tần Dung Nguyệt ban đầu lưu luyến không rời, cứ đi hai ba bước lại quay đầu nhìn Đường Từ một cái, Đường Từ cũng đứng tại chỗ ngay trước cửa để tiễn cô bé đi. Sau khi cô bé khuất khỏi hành lang, rẽ qua một góc phòng trong sảnh, khi ấy mới nhớ đến cái kẹo còn nắm chặt trong tay. Nãy giờ mải thổn thức với Đường Từ, cái kẹo vẫn còn nguyên vẹn hình dạng, bây giờ Tần Dung Nguyệt mới chăm chú nhìn kĩ. Cô bé nhìn chăm chăm một lúc lâu, chợt ngạc nhiên: "Ô, Nhu Kha tỷ tỷ?"

Đường Từ kéo cửa vào phòng, cung kính hành lễ sư đồ với Thượng thư Lại bộ Tần Diên, sau đó lại nhận một lễ đáp của ông. Đoạn, hai người mới ngồi xuống bàn ăn, cầm đũa lên tay.

"Sáng nay con ghé qua phố Chương Đài xem xét một lát, thấy lầu Thất Phượng vẫn bị niêm phong, bên ngoài có quan sai tuần tra canh gác."

Tần Diên vuốt râu, không vội tiếp lời này, chuyển đề tài: "Đã gặp vị kia ở yến Quỳnh Lâm chưa?" Hôm đó ông lấy cớ bệnh, xin miễn dự, vả lại Thượng thư Tần Diên xưa nay vẫn vậy, Bệ hạ không trách tội, quan lại không ngạc nhiên.

Tay gắp thức ăn bỗng dừng lại, lỡ tay làm vỡ miếng đậu phụ đang chông chênh trên đầu đũa, mặt tiếc nuối gắp một miếng khác, Đường Từ nhàn nhạt nói: "Con đã gặp."

"Vốn dĩ là con phải bị đánh rớt, sau lại được mời đi dự yến, được bổ sung vào hạng Thám Hoa." Tần Diên rót một chén trà cho nàng, tiếp lời: "Chủ khảo kỳ thi mùa Xuân năm nay là môn sinh của Thượng thư Hộ bộ Hàn Nho, sau khi Điện thí, ông ta dâng kết quả lên Bệ hạ và nhắc đến tên con, nói con là đệ tử bế môn của ta. Vì vậy Bệ hạ mới đưa con vào danh sách dự yến."

Vốn tưởng rằng nhờ ba năm ở kinh thành thường xuyên dự yến, kết giao rộng rãi, len lỏi vào chốn toàn nhân trung long phượng để khoe tài thi phú mà có được chút danh tiếng trên văn đàn nên khiến vị kia chú ý muốn gặp, không ngờ bên trong lại có ẩn tình thế này.

Đường Từ mất khẩu vị, ăn không còn cảm thấy ngon miệng nữa, đặt đũa xuống, chân thành cúi đầu tạ lỗi: "Con lại làm phiền đến thầy rồi."

"Chuyện này không phần nhiều không phải là do con. Hàn Nho là nhân sĩ phe Lỗ Vương, đã tranh đấu với ta nhiều năm trước tiền triều. Lỗ Vương giả bệnh để không đi phiên trấn nhưng cứ ở lại kinh thành thì cũng không phải là kế lâu dài, thế nên một hai năm gần đây hắn hành động có phần mạnh dạn. Lần này công kích ta chẳng qua là vì không thể loại bỏ nghịch lân của Bệ hạ. Kể từ năm Thuần Hữu nguyên niên thì ta đã chính là cái gai trong tim vị ấy, cần phải rõ lòng ta thì mới dám giao trọng trách."

"Sư phụ nói thế, vậy chuyện xảy ra với Hình Khang Bình ở lầu Thất Phượng hôm qua có lẽ cũng không thể nào không có liên hệ gì với bè phái của Lỗ Vương?"

Hình Khang Bình có xuất thân từ Hàn Lâm viện, sau đó vào Chiêm Sự phủ, nhờ được Thái Tử đích thân nâng đỡ tiến cử mà một đường thăng quan tiến chức. Nếu nhờ một vụ án mạng chốn lầu xanh mà đốn ngã Hình Khang Bình một cách triệt để thì ắt sẽ có thể củng cố uy tín, bồi đắp vị thế của đảng Lỗ Vương, đồng thời đả kích khí thế của phe Thái Tử.

"Đúng là như vậy, hơn nữa, hắn cũng đã chọn được thời điểm vô cùng thích hợp." Tần Diên thở dài: "Chuyện mới xảy ra sáng qua, việc khám nghiệm tử thi và lập án điều tra chắc chắn sẽ tốn một thời gian nhất định. Hôm nay là ngày Hưu mộc, Bệ hạ di giá đi săn không phê duyệt tấu chương. Mấy năm trở lại đây đại lao Hình bộ đâu phải là nơi con người có thể ở? Hình Khang Bình chỉ là một thư sinh ban văn, rơi vào tay Hồ Lai Ngạn rồi bị hành hạ chừng nửa ngày thôi thì dù không có tội cũng phải ngoan ngoãn ký tên điểm chỉ mà nhận tội!"

———

Phố Hoa Điểu.

Liên Khoáng Đạt mặc một thân quan phục chỉnh tề, ghì chặt dây cương, ghìm cho vó ngựa đang phi nước đại phải dừng lại. Khi bám yên ngựa để nhảy xuống, hắn chợt cảm thấy thịt non trong đùi đã ma sát vào lớp da cứng đến trầy cả ra, lại thêm mồ hôi túa ra thấm vào, giờ đây dấy lên một cảm giác đau xót tỉnh cả người.

Hắn thở dốc, không kịp nghỉ ngơi, cũng chẳng bận tâm tìm một thân cây hay cọc gỗ để buộc ngựa. Vội vàng đi nhanh về phía một ông lão tóc bạc phơ đang an nhàn vui vẻ ngồi câu cá trên ghế thái sư cạnh bờ sông, giọng nói cũng gấp gáp như bước đi:

"Tiên sinh, cầu xin ngài cứu huynh ấy, xin ngài cứu lấy Khang Bình huynh!"

"Nào nào, nói khẽ thôi, làm cá sợ chạy mất bây giờ."

Ông lão đưa mắt liếc nhìn hắn, thấy hắn nhễ nhại mồ hôi, miệng thì cứ há như đang muốn nói mà không biết nên nói hay không, bèn lắc đầu: "Ta đã cởi đai tháo mũ, cáo lão từ quan nhiều năm rồi, từ lâu đã không quan tâm đến việc triều chính, giờ đây cũng không biết Khang Bình mà ngươi nói là ai."

Lúc này, Liên Khoáng Đạt mới kể lại đầu đuôi câu chuyện một cách ngắn gọn nhất có thể.

Ông lão lướt mắt nhìn hắn từ trên xuống dưới rồi nhàn nhạt mà rằng: "Không cứu được đâu, chuẩn bị tiền mua quan tài đi."

Liên Khoáng Đạt đỏ bừng cả mặt lên, phẫn nộ nói lớn: "Tiên sinh nói gì vậy! Đó là một mạng người, tiên sinh!"

"Thế nữ tử lầu xanh bị thiệt mạng kia, mạng đó không phải là mạng người sao? Ngươi lăn lộn ở chốn quan trường nhiều năm như vậy mà chỉ học được cái bản lĩnh coi thường mạng sống của dân đen thôi à?"

Liên Khoáng Đạt sững sờ như bị sét đánh, sắc mặt từ đỏ chuyển sang xanh rồi từ xanh chuyển sang trắng, một lúc lâu sau mới buột miệng nói: "Khang Bình huynh và tẩu tẩu kiêm điệp tình thâm, thường ngày lại vô cùng tiết kiệm và tu dưỡng, ta không tin huynh ấy làm ra chuyện như vậy."

Cần câu cá đột nhiên rung lên, một thoáng lơ là mới thu cần lên xem thì ngay cả cỏ dại cũng không còn. Ông lão thấy mất hứng quá, sai người hầu thu dọn đồ đạc, rồi run run chống gối đứng dậy, vậy mà cũng không cho người đỡ.

Thấy Liên Khoáng Đạt vẫn đứng đờ ra như một khúc gỗ ở đó ông lại càng thêm tức giận, dậm chân mà quát: "Ngươi còn đi theo ta làm gì? Ta là Chưởng sự Hàn Lâm viện thời Khang Lạc, ta hầu hạ Tiên Đế! Chẳng lẽ ngươi không hiểu đạo lý 'một triều thiên tử một triều thần' sao? Chủ tử bây giờ đã không còn là chủ tử năm xưa, ta còn có thể giúp đỡ thế nào, cái đồ dốt nát!"

Liên Khoáng Đạt cứng đờ ra tại chỗ, nhìn bóng lưng còng xuống của ông lão đang bước đi ngày càng xa, dần dần biến thành một chấm đen trong ánh hoàng hôn vàng rực mà ảm đạm. Cái ý chí hừng hực và cái tinh thần phơi phới của năm xưa khi ông lão ngỏ lời mời hắn vào Hàn Lâm viện làm quan, cảnh tượng thảm thương trong ngục của huynh đệ chí cốt đang bị tra tấn đến mức máu và nước tiểu lẫn lộn, và sự chán nản bẽ bàng đến bất lực của ngày hôm nay, tất cả cùng đảo lộn và va đập trong đầu hắn, hoà cùng với tiếng trống chiều trong thành vang từng hồi đập vào lồng ngực, tất cả khiến cả người hắn nặng nề không thể bước đi.

Ở trên đầu, chú chim đậu nơi cành liễu rủ vỗ cánh bay vút lên trời cao xa xôi; và dưới chân, dòng nước vẫn chầm chậm chảy xuôi theo dòng, cuốn trôi những chiếc đèn hoa đăng cũ kỹ.

Chim bay xa gần về đồng nội, người xuôi dòng nước mặc Đông - Tây.[1]

[1] Thơ cổ, nguyên văn: 'Điểu hướng bình vu viễn cận, nhân tuỳ lưu thuỷ Đông Tây'. Chim muông trên đồng chiều xuống còn có chốn bay về, hoặc xa hoặc gần đều sum tụ. Người thì theo dòng nước mà xuôi ngược, mỗi kẻ mỗi phương, chẳng thể đồng hành, thơ cổ dùng để gi nỗi cảm hoài chia biệt của cuộc đi.

—— Hết chương 3 ——

Chương trước Chương tiếp
Loading...