BHTT • EDIT HOÀN • Sách tự bạch của phò mã - Kokaku

CHƯƠNG 46



Sự xuất hiện của Tôn Duyệt Chi khiến tôi vui mừng khôn xiết. Kiến thức của bà ấy sâu rộng, tuy không thạo bút mực đan thanh nhưng lại có những kiến giải vô cùng đặc sắc. Sau đó, tôi đã tìm gặp bà ấy nhiều lần, lần nào cũng được tiếp đãi lễ độ, chúng tôi trò chuyện vô cùng hợp ý.

Tại đây, tôi lại tìm thấy đôi chút cảm giác thong dong và thỏa nguyện, lòng kính phục Tôn Duyệt Chi đến tột cùng. Nếu có thể được như bà ấy, quả là một điều may mắn biết bao.

Sau lần đó, tôi cùng Diệu Chân, Triệu nương tử và cả Phùng đại gia thường ngồi lại với Tôn Duyệt Chi, bàn luận về thư họa và những chuyện tai nghe mắt thấy trong thiên hạ, những cuộc trò chuyện luôn rộn rã tiếng cười.

Công chúa lại không tham gia. Thư từ trong kinh thành tới lui không ngớt, chắc hẳn việc triều chính rối ren khiến nàng chẳng thể dứt ra được. Tôi không đến làm phiền, dẫu sao những thế cục đó cũng chả liên quan nhiều đến tôi nữa.

Một buổi chiều nọ, tôi lại đến thăm Tôn Duyệt Chi. Bà ấy đang thu dọn hành trang, bảo rằng ngày kia sẽ lên đường. Tôi có hơi hụt hẫng, bà ấy cũng tỏ ra tiếc nuối: "Chỉ tiếc chuyến này không xin được tranh của Tiết Tam nương tử."

Tôi ngơ ngác hỏi: "Nương tử nói đến là Tiết Cô ư?"

Tôn Duyệt Chi mừng rỡ: "Lý nương tử cũng quen biết cô ấy à?"

Tôi lắc đầu cười: "Chỉ là nghe danh thôi, chứ không hề quen biết."

Giọng Tôn Duyệt Chi có phần tiếc nuối: "Tài đan thanh của Tiết Tam nương tử vô cùng xuất sắc, cũng được người người ca tụng không ngớt. Trước đây Tôn mỗ được Quý chủ trọng dụng, tìm thi họa cho người, cũng từng thấy qua bút tích của Tiết Tam nương tử, muốn xin vài bức nhưng nghĩ lại cô ấy ở trong cung bận rộn, chắc không thể vẽ nhiều được, chuyến này đến đây Tôn mỗ còn tưởng sẽ gặp được cô ấy."

Thực ra hồi ở Quốc Tử Giám tôi cũng từng nghe danh tài của Tiết Cô, nhưng chung quy vẫn chưa từng kết giao sâu sắc, cũng chưa từng thấy qua tranh của cô ấy, thầm nghĩ nếu cô ấy không gặp phải những chuyện đó, dưới sự đề cử của Tôn Duyệt Chi, có lẽ cũng đã trở thành một danh họa.

Tôn Duyệt Chi thấy tôi im lặng, lại khẽ cười: "Nương tử thật ra đã rất may mắn rồi, được lọt vào mắt Quý chủ. Nếu không có Quý chủ tương trợ, việc kinh doanh thư họa của Tôn mỗ chưa chắc đã thuận buồm xuôi gió đến thế."

Tôi không khỏi thắc mắc: "Tôn nương tử nói vậy là có ý gì?"

Tôn Duyệt Chi đáp: "Quý chủ vô cùng ngưỡng mộ những nữ tử tài hoa trong thiên hạ, có nhiều tuyệt tác cũng là nhờ Quý chủ lên tiếng nói rất yêu thích, mới có thể ra mắt người đời. Tôn mỗ từng nghe nói năm xưa Tiết Tam nương tử vào ngục, cũng là Quý chủ cầu xin cố Thái tử mới giữ được tính mạng cho cô ấy, còn cho cô ấy vào cung làm giáo tập cho cung nữ, nương tử chưa từng nghe sao?"

Tôi hơi ngây người, chuyện này, tôi thực sự có chút ấn tượng.

Năm đó Tiết Cô vào ngục, tôi vô cùng tiếc hận nhưng chẳng thể làm được gì, chỉ đành vào ngục thăm cô ấy, mong có thể khuyên giải cho cô ấy phần nào.

Lúc ấy Tiết Cô vừa chịu hình, dựa vào vách lao, dáng vẻ tiều tụy song thần sắc vẫn kiên nghị.

Nhà lao của triều ta, trừ những con em quan lại quyền quý, phàm là nam nhân một khi đã vào ngục đều phải chịu mười trượng thị uy, nữ nhân thì phải chịu cực hình kẹp ngón tay.

Tôi nhìn đôi tay sưng vù của Tiết Cô, lòng dâng nỗi bi thương, bất giác siết chặt hai tay. Đối với những người như chúng tôi, đôi tay quan trọng đến nhường nào, tôi chỉ sợ cô ấy vì thế mà trở thành phế nhân như tôi, Tiết Cô lại cười với tôi: "Tiên sinh thật kỳ lạ, không lo cho tính mạng của học trò, chỉ lo đôi tay của học trò có bị phế hay không."

Tôi bất giác ngượng ngùng, nhưng lại nói: "Nếu cô không vào Quốc Tử Giám, đã chẳng gặp phải đại nạn này, sao ta có thể không tiếc hận?"

Tiết Cô lắc đầu cười: "Tiên sinh, học trò tuy là nữ nhi, nhưng cũng mong có thể như nam nhân trong thiên hạ, thể hiện tài học, đứng trên triều đường, cũng sẽ hy vọng tài hoa của mình được lưu truyền hậu thế, để người đời biết rằng, nữ tử không phải chỉ có thể ru rú trong khuê các, sinh con đẻ cái, đó không phải là tất cả những gì một nữ tử mưu cầu. Học trò cũng có lý tưởng, có một trái tim ham học hỏi, đây cũng coi là 'đi trước thiên hạ' vậy."

Trong mắt cô ấy không thấy chút đau khổ nào, chỉ trong ngần và khoáng đạt như biển rộng non cao. Tôi nặng nề thở dài, lòng xót xa: "Nhưng cô phạm tội khi quân, e rằng không có kết cục tốt đẹp."

Ánh mắt Tiết Cô kiên định, nhẹ cười nhìn tôi: "Nếu học trò không thể vào sử sách, mà chỉ có thể lưu lại một cái tên trong sổ sách nhà lao, sau này hậu nhân đọc lại, biết được câu chuyện của học trò, há chẳng phải cũng là một điều may mắn sao?"

Tôi bị tâm thế khoáng đạt, tự tại của cô ấy làm cho chấn động, sâu sắc cảm thấy mình thật yếu đuối và hèn nhát, lại một lần nữa xấu hổ và đau buồn khôn nguôi, muốn nói gì đó, song biết rõ dù là lời lẽ nào cũng đều là hạ thấp cô ấy.

Dưới tia sáng le lói của trời, cô ấy nghiêm nghị bảo với tôi rằng: "Tiên sinh, dù chỉ đi được đến đây, học trò cũng không hề hối hận."

Tôi hổ thẹn khôn cùng, cảm xúc dâng trào, vội vã chạy ra ngoài như bỏ trốn. Dưới cái nắng chói chang, tôi cảm thấy mình thật hèn mọn và bất tài.

Đêm đó, tôi đến Lưu Xuân Các, hy vọng có thể xin Công chúa cầu tình với Thái tử, mở cho Tiết Cô một con đường sống.

Lúc ấy, ánh mắt nàng lạnh nhạt, vì mấy hôm trước tôi chìm trong quá khứ đau thương mà từ chối nói chuyện với nàng, chắc hẳn đã khiến nàng không vui.

Công chúa tựa người trên sập, hỏi tôi: "Phạm Bình, vì sao ngươi lại quan tâm Tiết Cô đến vậy?"

Tôi sững sờ, suy nghĩ một lát, rồi bước đến ngồi trước sập của nàng, lòng do dự không yên, hồi lâu, tôi phả luồng thở dài, tự bóc trần những quá khứ bất kham của mình trước mặt nàng.

"Ta thích viết chữ, cũng thích vẽ tranh, thi từ ca phú cũng coi là có biết đôi chút. Ta không cầu có thể gây dựng sự nghiệp trên triều đường, nếu chỉ làm một nhà thư pháp, hay một họa sĩ có chút tiếng tăm, ta cũng đều vui lòng. Nhưng Công chúa, đôi tay của ta, đã bị đánh gãy ở Quốc Tử Giám, khí phách của ta, cũng bị những lời chế giễu của đám con em quyền quý đó nghiền nát. Ta sợ rồi, ta không dám theo đuổi những điều đó nữa, giống như mẹ ta nói, cả đời này của ta, chỉ cần bình an là đủ rồi."

Công chúa hơi giật mình, sự lạnh nhạt trong đôi mắt tan đi, nàng mấp máy môi, nhưng cuối cùng vẫn im lặng.

Tôi chưa từng nói với ai những lời này, nỗi đau và sự uất ức chôn sâu trong tim khiến tôi gần như không thể chịu đựng nổi bất kỳ ánh mắt thương hại hay đáng thương nào của Công chúa. May mắn thay, Công chúa không hề lộ ra vẻ mặt đó, điều khiến tôi nhẹ nhõm đôi chút.

Tôi nhìn nàng, hạ giọng nói: "Công chúa, đời người lắm gian truân, kẻ kiên trì được không nhiều, ta rất ngưỡng mộ Tiết Cô, can đảm của cô ấy không ai sánh bằng. Nữ cải nam trang thi đỗ công danh, được châu phủ tiến cử vào Quốc Tử Giám, đó là vinh dự tột bậc của sĩ tử trong thiên hạ, đi tiếp nữa, chính là làm quan làm tể, lưu danh sử sách. Ta rất kính trọng cô ấy, nếu ta có cơ hội này, cũng muốn giúp cô ấy. Chuyện đấy không liên quan đến tình cảm nam nữ, chỉ là đồng bệnh tương liên, nếu Công chúa có thể vì sự kính trọng ta dành cho Công chúa trước đây, mà giúp cô ấy một tay, Phạm Bình cả đời này sẽ vô cùng cảm kích."

Tôi chỉ là một Phò Mã Đô Úy Phạm Bình vô dụng, ngay cả cái gọi là công bằng cũng là do người khác ban cho. Cả đời này tôi không thể viết ra những chữ như vậy, vẽ ra những bức họa như vậy nữa, nhưng tôi không muốn Tiết Cô cũng giống như tôi.

Dưới ánh nến lung linh, Công chúa im lặng một lúc, rồi chớp mắt hỏi tôi: "Vì sao nữ tử không thể lưu danh sử sách?"

Tôi bị câu hỏi của nàng làm cho ngơ ngẩn. Suy nghĩ của Công chúa trước nay luôn khác người. Trầm tư một lát, tôi đáp: "Không phải nữ tử không thể, mà là bị cố tình lãng quên, cũng bị cố tình, từ bỏ."

Công chúa lại hỏi: "Ngươi muốn lưu danh sử sách?"

Tôi không khỏi bật cười, nỗi đau và bi thương trước đó đã được giải tỏa, tôi lắc đầu: "E rằng ta chưa có tài năng đó."

Nàng im lặng, hồi lâu, thản nhiên buông tiếng: "Cô ta nữ cải nam trang, dù có lưu lại tên tuổi, cũng chỉ bị nhận là nam nhân."

Tôi cười: "Biết làm sao được, sử sách, chẳng qua chỉ là sự sắp đặt của hậu thế về tiền nhân thôi, chỉ cần hợp lẽ thường là đủ."

Ánh mắt Công chúa dần tối lại, dường như đương đăm chiêu điều gì. Nàng khẽ tựa người vào sập, hàng mi dài đổ xuống một bóng râm. Nội tâm tôi vô cùng căng thẳng, chỉ sợ nàng từ chối. Hồi lâu, Công chúa ngước mắt lên, nói: "Ta biết rồi, Phạm Bình, ta sẽ nói với Thái tử, tha cho Tiết Cô một con đường sống."

Tôi lập tức xúc động khôn cùng, đứng dậy quỳ xuống, khấu đầu thật sâu: "Đa tạ Công chúa."

Công chúa không đáp lời. Sau đó, Thái tử vào cung tâu bày, trình tài học của Tiết Cô lên Thiên tử, lại lấy sự ngược đãi tôi phải chịu năm xưa ra để cầu tình, miễn cho Tiết Cô tội chết, đưa cô ấy vào cung làm giáo tập, dạy cung nữ thi văn. Tôi lại một lần nữa vô cùng cảm kích.

Tôi không biết đây là hại Tiết Cô hay giúp Tiết Cô, nhưng người như cô ấy không đáng phải chịu tội chỉ vì thân phận nữ nhi. Nếu có một ngày, người như cô ấy có thể thể hiện tài hoa giữa đời, có lẽ đó mới là may mắn của nữ tử trong thiên hạ.



#



Những lời của Tôn Duyệt Chi khiến tôi vô cùng xúc động. Dù là khi đó hay bây giờ, Công chúa có thể ưu ái những nữ tử như vậy, sao có thể không phải là một việc đáng kính phục?

Tôi cúi đầu trước Tôn Duyệt Chi: "Tôn nương tử có thể khiến tranh của nữ tử lưu truyền thế gian, cũng đủ thấy tấm lòng của Tôn nương tử rộng mở."

Tôn Duyệt Chi cười, đứng dậy lấy một bức từ bên cạnh đưa cho tôi: "Hôm thi đấu, Lý nương tử tuy thua, nhưng Tôn mỗ vẫn thấy được ý cảnh cao xa của Lý nương tử, bức tranh này, xin tặng cho Lý nương tử vậy."

Tôi nghi hoặc nhận lấy, từ từ mở cuộn tranh ra, chỉ thấy một con hạc trắng tung cánh giữa không trung, sông nước bao la, mặt trời lặn nhuộm đỏ nửa dòng sông, là một bức tuyệt hảo. Tôi siết chặt lấy nó, lòng vô vàn xúc động, lại sợ mình không gánh nổi món quà này, không khỏi do dự.

Tôn Duyệt Chi trông vẻ mặt của tôi, buông tiếng thở dài: "Tôn mỗ không biết tâm sự của nương tử, nhưng thấy cô dường như luôn do dự và sầu muộn. Đời người dài đằng đẵng, dù đã xảy ra chuyện gì cũng đều là mây khói qua đường. Nương tử nếu có lòng với thư họa, dù khi nào bắt đầu lại cũng không muộn. Nương tử thấy sao?"

Tôi giật mình, đối diện với ánh mắt khích lệ của bà ấy, phút chốc cảm thán vô ngần. Tôi đứng phắt dậy, ôm tranh vô lòng, trịnh trọng mà rằng: "Tôn nương tử, nếu ta muốn cùng Tôn nương tử rời đi, Tôn nương tử có bằng lòng đưa ta đi cùng không?"

Tôn Duyệt Chi thừ ra, ngẫm ngợi một lát, rồi nói: "Tôn mỗ thì không sao, chỉ là nương tử là thị nữ của Quý chủ, vẫn phải xin phép Quý chủ trước đã."

Tôi khựng lại, vội rằng: "Ta sẽ đi xin phép Quý chủ ngay, xin Tôn nương tử hãy đợi ta."

Tôn Duyệt Chi nhoẻn miệng gật đầu, đồng ý với yêu cầu của tôi. Tôi lập tức đứng dậy, đến nội viện của Công chúa tìm nàng. Bấy giờ đã vào đêm, nhưng tôi chẳng thấy bóng dáng nàng đâu, ngay cả Đinh Lan cũng chả biết đi đâu. Đương lúc nghi hoặc, tôi đi đến một nơi, lại thấy Phùng đại gia đang hóng mát dưới trăng. Phùng đại gia gặp tôi thì cười nhẹ: "Nương tử định đi đâu?"

Tôi cúi đầu: "Nô tỳ đến tìm Đại trưởng công chúa, không biết đại gia có biết người đi đâu không?"

Phùng đại gia vẫn giữ nét cười, chỉ tay một cái, là hướng về chỗ viện của tôi: "Có lẽ đang ngắm thác nước, gần đây người thường đến đó."

Tôi cảm tạ lần nữa, lòng đầy phấn khởi hướng về thác nước trong rừng sâu, men theo lối mòn quanh co. Hồi lâu sau, dưới ánh trăng tôi trông thấy một ngọn đèn lưu ly leo lét mờ ảo, thác nước tựa triều dâng, ào ạt đổ xuống.

Công chúa mặc thanh sam, mái tóc dài không búi, ngồi quay lưng trên tảng đá lớn. Bên cạnh nàng là mấy vò rượu sứ trắng cổ nhỏ vương vãi. Dường như nghe thấy tiếng động, nàng từ từ quay đầu lại, ánh mắt đen thẳm, giọng như thủ thỉ: "Phạm Bình, ngươi đến rồi."



---

Editor: Ở chương 13 Đinh Lan có hỏi Phạm Bình tại sao lại quá để tâm đến Tiết Cô, Phạm Bình đáp là đã từng trả lời với Công chúa rồi, chỉ là Công chúa đã quên, thì câu trả lời chính là ở chương này.

Chương trước Chương tiếp
Loading...