BHTT • EDIT HOÀN • Sách tự bạch của phò mã - Kokaku
CHƯƠNG 42
Chẳng bao lâu sau, chúng tôi đã tới chân ngọn núi nơi Bạch Vân Quán tọa lạc. Theo lời Triệu nương tử, đạo quán này vốn là một am tu nhỏ xiêu vẹo, chỉ có vài nữ đạo sĩ già trẻ trông coi. Lại thêm đám du côn dưới núi thường xuyên đến quấy nhiễu cướp bóc, nên mấy năm trước cuộc sống vô cùng cơ cực. Sau này Công chúa tình cờ biết chuyện, bèn cho người tu sửa lại , còn ban cho ruộng đất để họ tự canh tác. Người trong quán ai nấy đều vô cùng cảm kích, từ đó Công chúa cũng thường lui tới đây nghỉ ngơi. Chuyện đó dường như xảy ra khi Công chúa vẫn còn ở Phạm phủ, vậy mà tôi lại chẳng hề hay biết. Tôi chỉ nhớ có một năm, tôi theo nàng đến Huyền Diệu Quán ở ngoại thành để cầu phúc. Nàng quen biết vợ con của Lễ bộ Ngô Thị lang trong một bữa tiệc ở phủ Thái tử, đôi bên khá hòa hợp nên đã hẹn nhau cùng đến Huyền Diệu Quán. Lúc ấy tôi đang trong kỳ nghỉ, bèn thuận miệng hỏi một câu rằng có cần đi cùng không. Công chúa chẳng tỏ ý kiến, vẻ mặt lạnh nhạt. Tôi bất giác thấy tai mình nóng bừng, cảm giác như mình vừa tự rước lấy sự muối mặt. Nhưng ngày hôm sau, nàng lại sai Đinh Lan đến dặn tôi chuẩn bị chu đáo, không được thờ ơ với thần linh , tôi thực sự chẳng biết phải nói gì. Khi tới Huyền Diệu Quán, tôi mới phát hiện Ngô Thị lang cũng có mặt. Công chúa cùng vợ con ông ta vào trong quán rồi dắt nhau vô gian trong nhờ đạo trưởng giải quẻ xăm. Tôi và Ngô Thị lang đợi ở gian ngoài, cũng thắp một nén hương. Sau một hồi im lặng, Ngô Thị lang lên tiếng hỏi tôi: "Sớm đã nghe danh Phạm Phò mã là bậc tài tuấn trẻ tuổi, kiến thức phi phàm, hôm nay gặp mặt quả nhiên danh bất hư truyền." Tôi không nói nên lời, cảm thấy vô cùng xấu hổ trước lời khen của ông ta, bèn đáp: "Ngô Thị lang quá lời rồi, trong bụng Phạm Bình có bao nhiêu chữ nghĩa, tự mình biết rõ. Vừa chẳng phải tài tuấn trẻ tuổi, lại càng không có kiến thức phi phàm." Ngô Thị lang nheo mắt cười, nhìn vào sâu trong đạo quán, khẽ nói: "Chuyện của Phạm Phò mã, Ngô mỗ cũng từng nghe qua. Phò mã không cảm thấy bất công sao, lại để họ sỉ nhục như vậy?" Tôi ngơ ngác, cảm thấy bất an trước ánh mắt của Ngô Thị lang, song cuối cùng vẫn mỉm cười: "Đó đều là chuyện quá khứ rồi, Phạm Bình dẫu có bất công cũng đành bất lực." Ngô Thị lang thở dài thườn thượt, một lúc lâu mới nói: "Tiếc quá, Ngô mỗ còn tưởng rằng, Phạm Phò mã là người trợ giúp cho Công chúa." Tôi khó hiểu nhìn ông ta, hỏi ông ta có ý gì. Dẫu vậy Ngô Thị lang chỉ lắc đầu, cười cho qua chuyện. Cùng lúc đó, Công chúa cũng cùng vợ con ông ta bước ra, chúng tôi bèn không nói thêm gì nữa, chỉ chào từ biệt nhau. Công chúa lại giữ tôi ở trong quán, trước tượng thần thắp thêm một nén hương, hai tay chắp lại, thành kính nhắm mắt suy tư. Tôi ngắm nhìn dáng vẻ của nàng mà đâm ra ngơ ngẩn. Mái tóc nàng được vấn gọn gàng, đường nét từ vành tai xuống cằm mềm mại, tròn trịa. Nếu nàng là một bức cổ họa, hẳn phải là một đóa lan, hay một nhành sen. Tôi ngắm đến say sưa, khi hoàn hồn thì đã thấy Công chúa quay sang nhìn mình, trong mắt dường như có cả sự tò mò lẫn mong đợi, nàng hạ giọng hỏi: "Phạm Bình, ngươi đã cầu gì thế?" Nghệch mặt một chút, tôi cười đáp: "Vừa rồi quên mất, ta chẳng cầu gì cả." Công chúa khẽ "ờ" một tiếng, không rõ là hài lòng hay ý khác, rồi nàng ra lệnh quay về. Chúng tôi bèn men theo đường cũ xuống núi. Nhưng đi được nửa sườn núi, tôi thấy bước chân nàng rõ ràng chậm lại, khó nhọc hơn nhiều. Hẳn là nàng không quen đi đường núi. Lúc lên núi, Công chúa vốn ngồi kiệu, song chả hiểu sao xuống núi nàng lại muốn đi bộ. Tôi bèn hỏi nàng: "Công chúa có muốn ngồi kiệu không?" Công chúa lắc đầu, cố đi thêm một đoạn khá xa, đến khi có thể trông thấy trấn nhỏ dưới chân núi thì trán nàng đã lấm tấm mồ hôi, hai má ửng hồng. Tôi lại hỏi liệu nàng có muốn ngồi kiệu không. Công chúa chau mày, thoáng nét không vui, ngập ngừng một lát rồi đáp: "Như vậy sẽ không còn linh nghiệm nữa." Tôi ngơ ngác dòm nàng, từ ánh mắt nàng tôi nhận ra, có lẽ nàng đã cầu nguyện trước thần linh, rằng sẽ tự mình đi bộ xuống núi. Có điều nhìn dáng vẻ mệt mỏi của nàng, lòng tôi không khỏi xót xa, bèn ngồi xổm xuống trước mặt nàng, mời nàng lên lưng mình. Công chúa lại không chịu, nói: "Phạm Bình, ngươi làm vậy là bất kính với thần linh." Tôi quay đầu nhìn nàng, khẽ cười: "Phạm Bình đã là phò mã của Công chúa, thì chuyện của Công chúa cũng là chuyện của Phạm Bình, ước nguyện của Công chúa cũng là ước nguyện của Phạm Bình. Cứ như vậy xem ra, lời hứa của Công chúa dĩ nhiên cũng có thể để ta gánh vác một phần, thần linh chắc sẽ không trách tội đâu." Công chúa trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng dường như bị thuyết phục, nàng đưa tay qua cổ tôi, nhẹ nhàng leo lên vai lưng tôi. Tôi chợt cứng người, cách một lớp áo, dường như tôi vẫn cảm nhận được hơi ấm từ cơ thể nàng. Vòng tay nàng âm thầm siết lại, kéo khoảng cách giữa chúng tôi gần hơn, hơi thở ấm của nàng phả vào gáy tôi, gần như muốn thiêu đốt tôi. Tôi chỉ cảm giác hai má và tai nóng ran, tâm can hối hận vì đã đưa ra đề nghị này. Tôi đỡ lấy hai chân nàng, càng cảm nhận được cơ thể cứng đờ, đến cả việc nên bước chân nào trước cũng quên sạch. Hồi lâu sau, chỉ nghe tiếng Công chúa thủ thỉ bên tai: "Phạm Bình, ngươi còn không đi sao?" Câu hỏi ấy vương vấn bên tai, quấn quýt trong tim, khiến tôi bất giác rùng mình. Công chúa hình như cười nhẹ một tiếng: "Phạm Bình, trông ngươi cũng đi không vững rồi, còn muốn cố chấp sao?" Chợt thấy xấu hổ, nhưng không chịu thua, tôi chỉ xốc nàng lên một cái, nói: "Phạm Bình chỉ là kính sợ thần linh, không phải cố chấp." Công chúa không đáp, chỉ tựa đầu vào vai tôi, mái tóc lướt qua gáy tôi, có hơi nhồn nhột. Tôi nghe thấy tiếng nàng giữa âm thanh gió núi chim ca: "Phạm Bình, hy vọng thần linh có thể thực hiện nguyện vọng của ta." Tôi khẽ cúi đầu, dùng giọng điệu nhè nhẹ, mềm mại an ủi nàng: "Dù Công chúa muốn cầu xin điều gì, tin rằng thần linh đều sẽ ứng nghiệm."
#
Bạch Vân Quán nằm sâu trong núi non tĩnh mịch, đường đi gập ghềnh, xe ngựa khó qua. Công chúa không cho chuẩn bị bộ liễn [1], cũng không mang theo nhiều người, ngoài Uy Nhuy và hơn mười thị vệ thì chỉ có tôi, Triệu nương tử và Đinh Lan, hẳn là để tìm sự thanh tịnh. [1] Một loại kiệu nhỏ, không có bánh xe, do người khiêng, thường dành cho vua chúa và các thành viên hoàng tộc thời xưa. Chúng tôi lên núi từ sáng sớm, tới quá trưa, khi mặt trời đã ngả bóng mới đi được cách Bạch Vân Quán trăm trượng. Ngẩng đầu đã có thể trông xa thấy cổng đá trắng nguy nga, dường như có mây mù lượn lờ bao quanh. Trăm bậc thềm đá, uốn lượn khúc khuỷu, như thang lên trời, rất chi hùng vĩ. Nghỉ chân một lát, chúng tôi tiếp tục leo núi. Trước cổng có một bậc thềm khá cao, chạm khắc hình hạc tiên và tùng tuyết. Công chúa được Uy Nhuy đỡ lên, tôi đang định bước tới thì thấy Công chúa quay người, khẽ cúi xuống đưa tay về phía tôi. Đôi mắt nàng đen láy, ánh mặt trời chiếu rọi, bóng nàng bao phủ lấy tôi. Tôi đẫn đờ tại chỗ, đầu óc trống rỗng, chỉ biết nhìn bàn tay trắng ngần mềm mại của nàng. Trước đây, nàng từng nhiều lần rủ xuống tay áo, tựa như đang chờ tôi nắm lấy, nhưng lần nào tôi cũng lặng thinh từ chối. Còn việc nàng chủ động chìa hẳn cả tay ra với tôi thế này, dù là quá khứ hay hiện tại, đều là chuyện chưa từng xảy ra. Trái tim tôi như có thứ gì đó đang nảy mầm, dụ dỗ tôi bắt lấy tay nàng. Tôi bất giác đưa tay ra, dưới ánh mắt trầm tĩnh của Công chúa, tôi từ từ chạm vào đầu ngón tay nàng. Chỉ một khoảnh khắc, tôi lại đột ngột rụt tay về, như bị một luồng sét đánh trúng, tim đập trống dồn, lập tức tránh nàng mà đi, nhanh chóng bước lên bậc thềm. Công chúa khựng lại, thoắt chốc, nàng lần nữa trở về điệu bộ lạnh nhạt thường ngày, lẳng lặng nhìn tôi một cái thật sâu rồi rảo bước vào đạo quán. Tôi cúi đầu theo sau, tim vẫn đập loạn nhịp. Cách đó không xa, trước đạo quán có hơn hai mươi nữ đạo trưởng áo lam và mười mấy tiểu đồng đang đợi sẵn. Dẫn đầu là vị quán chủ của nơi này, đạo hiệu Diệu Chân, khoảng ba mươi tuổi, dáng người cao ráo, mày thanh môi mỏng, mặc một bộ đạo bào xanh sẫm cổ giao lĩnh trắng, đầu đội liên hoa quan [2] bằng sa xanh. Quán chủ tiến lên mời Công chúa vào đạo quán, cũng gật đầu chào chúng tôi, ánh mắt khi thấy tôi có dừng lại một thoáng. [2] Một loại mũ đội đầu thời xưa, dùng để búi tóc, có hình dáng như một đóa hoa sen đang nở. Công chúa cũng gật đầu với quán chủ, rồi theo đối phương vào trong, hỏi: "Tôn nương tử đến chưa?" Diệu Chân đáp: "Ngày kia chắc sẽ tới." Công chúa lại hỏi: "Phùng đại gia thế nào rồi?" Diệu Chân đáp: "Vẫn thường ở trước điện thờ. Hôm nay Quý chủ đến, đại gia vui lắm, chỉ là mấy hôm trước bị trúng nắng, giờ rất mệt mỏi, không dậy nổi." Công chúa đâm chiêu, đoạn nói: "Nếu đã vậy, ta đến xem một chút trước, quán chủ cứ sắp xếp cho họ đi." Diệu Chân đáp vâng, rồi mời chúng tôi vào trong đạo quán. Tôi nhìn bóng lưng Công chúa từ xa, nghĩ rằng vị cố nhân kia chính là vị đại gia bị trúng nắng này. Trong đạo quán bài trí đơn sơ, cảnh vật thanh nhã, cũng như tôi đoán, trồng rất nhiều hoa cỏ, chỉ có điều khiến tôi ngạc nhiên là bốn phía đạo quán trồng rất nhiều hoa bào đồng. Tôi không khỏi hỏi: "Hoa bào đồng này có từ trước rồi sao?" Diệu Chân khẽ cười: "Vốn là không có, chỉ là sau này Quý chủ thường đến, cảm thấy lạnh lẽo, bèn cho người trồng lên." Tim tôi khẽ nảy lên một nhịp, im lặng không đáp, chỉ vỏn vẹn theo Diệu Chân bước vào một khoảng sân. Đinh Lan và Triệu nương tử vì cần chăm sóc sinh hoạt cho Công chúa nên nơi ở không cách phòng nàng bao xa, còn chỗ ở của tôi lại khá yên tĩnh, hẻo lánh, cửa nam đi ra chính là hậu sơn. Nghe Diệu Chân nhắc đến, hậu sơn của đạo quán có một thác nước, treo lơ lửng như dải ngân hà, bốn mùa đều chất chứa cảnh đẹp, nếu tôi rảnh rỗi cũng có thể đến xem. Tôi bèn gật đầu cảm tạ. Diệu Chân lặng lẽ nhìn tôi, nơi mày mắt chất chứa nụ cười bí ẩn, khiến tôi hơi căng thẳng, chỉ cảm giác những đạo trưởng này dường như luôn có tài nhìn thấu tâm can người khác. Có lẽ vẻ mặt tôi quá bất an, Diệu Chân thu lại nụ cười, thẳng thắn và trực tiếp vạch trần bí mật nội tâm tôi: "Cư sĩ nặng lòng với Quý chủ phải không?" Tôi ngỡ ngàng nhìn Diệu Chân, nhất thời lúng túng, song dưới ánh mắt trầm tĩnh của ấy, tôi đành chịu thua: "Quán chủ là người tu đạo, cũng quản cả chuyện trần tục này sao?" Diệu Chân khẽ cười: "Vốn không muốn quản, chỉ là thấy cư sĩ trông thật đáng thương, nên không khỏi hỏi một câu." Cả đời này là lần đầu có người nói tôi đáng thương, khiến tôi bật cười, dẫu vậy không thể phản bác: "Là thế thì sao?" Tôi tưởng Diệu Chân sẽ ngạc nhiên trước lời thừa nhận của tôi, nhưng vẻ mặt kia vẫn như cũ, hệt đã hiểu rõ mười mươi: "Nhưng cư sĩ không dám nói, đó chính là chỗ đáng thương của cư sĩ." Tôi ngỡ ngàng, muốn mở miệng phản bác lại nghe Diệu Chân nói: "Cư sĩ cảm thấy mình không xứng với Quý chủ, vì thế không dám nói cho Quý chủ biết. Hay là, vì mình thân là nữ nhi, cảm thấy nếu nói ra sẽ khiến Quý chủ chán ghét, cho nên do dự không quyết, chỉ một lòng muốn trốn chạy." Trầm mặc một lúc, tôi lên tiếng: "Sao quán chủ lại cho rằng ta muốn rời đi chỉ vì không nhận được hồi đáp của Đại trưởng công chúa?" Giọng Diệu Chân nhẹ bẫng, nhưng câu nào câu nấy như dao đâm: "Bởi vì cư sĩ chính là người như vậy, yếu đuối, rối rắm, không chịu đối mặt với kết cục không thể chấp nhận được, đành giả vờ như không quan tâm, cố tình từ bỏ, để tỏ ra mình phóng khoáng." "Quán chủ và ta không quen biết, nói những lời ấy có phải quá võ đoán không?" Tôi hơi vội vàng, là tâm sự bị người không liên quan vạch trần, cảm thấy vô cùng xấu hổ. Diệu Chân thờ ơ, chỉ buông câu: "Nếu cư sĩ thật sự muốn buông bỏ, chi bằng nói rõ với Quý chủ, ngày sau trời cao biển rộng, mới được coi là tự tại." Tâm khảm cuồn cuộn một trận xáo động, một luồng khí tức uất nghẹn sinh sôi, nhưng tôi không biết nên trút ra sao, buộc miệng hỏi Diệu Chân: "Vì sao quán chủ lại nói với ta những lời này, huống hồ quán chủ mới gặp ta thì biết được bao nhiêu về ta?" "Bần đạo tuy mới gặp cư sĩ nhưng đã quen biết Quý chủ từ lâu." Diệu Chân đáp. Tôi hơi giật mình, chưa kịp phản ứng lại nghe câu kế: "Hơn nữa, cư sĩ cứ coi như là để bần đạo chuộc lại lỗi lầm ngày xưa đi." "Lỗi lầm?" Tôi khó hiểu dán mắt vào Diệu Chân, "Quán chủ nói vậy là có ý gì?" Diệu Chân buông tiếng thở nhẹ, cúi đầu nhìn tôi: "Cư sĩ không biết đó thôi, bần đạo từng có hai vị mẫu thân, nhưng thuở nhỏ lại cảm thấy vô cùng nhục nhã vì điều đó, cho rằng thế gian này vốn dĩ phải lấy phu thê làm lẽ thường, hai người phụ nữ ở cùng nhau là trái với lẽ đời. Vì vậy, bần đạo thường tỏ thái độ coi thường với mẹ nuôi, nhiều lần bất kính với bà. Mẹ ruột thấy bất an, cũng là vì tương lai bần đạo có thể tìm được một tấm chồng tốt, nên đành phải mời mẹ nuôi rời đi." "Mẹ nuôi không từ chối, ngay đêm đó liền thu dọn hành trang. Bần đạo tự thấy hả hê, nghĩ rằng đợi mình lớn lên, gả làm vợ người, cũng có thể tìm cho mẹ ruột một tấm chồng để dưỡng già. Nhưng từ khi mẹ nuôi đi rồi, mẹ ruột ngày ngày hồn vía trên mây, dù cố gắng gượng cười cũng vô cùng tiều tụy. Bần đạo rất không hiểu, hỏi bà có phải không khỏe trong người không, mẹ ruột lắc đầu không nói, chỉ bảo vì bần đạo, dù bà phải trả giá thế nào cũng không sao. Bần đạo bất an, lại vừa thấy vui mừng, vui vì mình không còn phải chịu người đời dị nghị, bất an vì sức khỏe mẹ ruột ngày một sa sút." "Cuối cùng một năm sau, mẹ ruột ngã bệnh. Bần đạo ngỡ bà sắp mất, khóc không thôi, lại nghe thấy trong mơ bà gọi tên mẹ nuôi. Hóa ra lời đồn là thật, mẹ ruột quả thật có tình ý với mẹ nuôi, nhưng bà lại nói với bần đạo, rằng bà vô cùng hối hận, không bày tỏ tình cảm của mình cho mẹ nuôi hay, khiến mẹ nuôi lúc ra đi cũng chỉ mang theo nỗi đau lòng." Tôi trầm mặc không lên tiếng, chuyện hai người mẹ này nghe có vẻ quen thuộc, cũng thật đau lòng, không khỏi hỏi tiếp: "Sau đó thì sao, chẳng lẽ hai vị mẫu thân của quán chủ không bao giờ gặp lại nhau nữa sao?" Diệu Chân hạ mi mắt, thở dài, nhìn tôi cười buồn: "Một tháng sau khi mẹ ruột ngã bệnh, bần đạo lại gặp được mẹ nuôi, mới biết bà không hề đi xa, chỉ trốn ở huyện bên cạnh, cũng luôn dò la tin tức của mẹ ruột. Nhưng những điều này, mẹ ruột đều rõ. Bần đạo vô cùng hối hận, cũng vô cùng xấu hổ. Lẽ đời ra sao, tục lệ thế nào, đều không thể sánh bằng tấm chân tình trao nhau, dù chưa từng tỏ bày bằng lời nói, nhưng họ nhớ thương đối phương, còn chân thành tha thiết hơn cả hôn nhân thế gian. Từ đó bần đạo hoàn toàn hiểu ra, mọi sự xấu hổ của bần đạo đều đến từ quy định của thế tục, chứ không phải tự mình trải nghiệm lòng người. Tình cảm của họ chưa từng làm tổn thương ai, cớ sao lại bị lẽ đời sỉ nhục? Vì vậy ta quỳ trước giường mẹ ruột, cầu xin mẹ nuôi ở lại, từ đó cũng thuận theo lòng mình, rời nhà lên núi tu đạo." Nghe xong lời Diệu Chân, nỗi khó chịu trong tôi đều tan biến. Hẳn là Diệu Chân không muốn thấy người có tình phải ôm tiếc hận, nên mới khuyên giải tôi. Tôi vô cùng cảm động, cũng bất giác lâng lâng vui mừng. Nghe hai vị mẫu thân của Diệu Chân có được kết cục như vậy, cũng không uổng một phen may mắn. Tôi không khỏi cúi đầu bái lễ: "Hóa ra lại có duyên cớ như vậy, trước đây đã hiểu lầm quán chủ, mong quán chủ lượng thứ." Diệu Chân cười nhẹ lắc đầu, lại hỏi: "Bần đạo chỉ hy vọng cư sĩ không lưu lại tiếc nuối. Hành động của Quý chủ trước cổng núi đối với cư sĩ rõ ràng khác biệt, chỉ vì cư sĩ không nhìn thấu, nên bần đạo mới hồ đồ đoán bừa như vậy." Tôi lặng thinh một thoáng. Lòng tôi quá đỗi sợ hãi sự khước từ của nàng, nhưng lại chưa từng nghĩ rằng, dẫu có bị từ chối, nàng cũng chưa chắc đã chán ghét tôi. Nghĩ đến đây, tâm tôi cũng yên ổn phần nào, bèn một lần nữa cảm tạ Diệu Chân. Diệu Chân cười nhạt không nói, có điều ánh mắt lại vượt qua tôi, dõi về phía sau lưng tôi. Tôi ngơ ngác ngoảnh đầu nhìn lại, liền bắt gặp Công chúa đã đứng cách đó không xa, vẻ mặt điềm nhiên.
---Editor: Ngồi nghĩ cả buổi mới load được tư thế đưa tay cho Phạm Bình nắm ở mấy lần trước của Công chúa có lẽ là tay đặt ngang chứ không phải chìa thẳng về phía người đối diện 😂
#
Bạch Vân Quán nằm sâu trong núi non tĩnh mịch, đường đi gập ghềnh, xe ngựa khó qua. Công chúa không cho chuẩn bị bộ liễn [1], cũng không mang theo nhiều người, ngoài Uy Nhuy và hơn mười thị vệ thì chỉ có tôi, Triệu nương tử và Đinh Lan, hẳn là để tìm sự thanh tịnh. [1] Một loại kiệu nhỏ, không có bánh xe, do người khiêng, thường dành cho vua chúa và các thành viên hoàng tộc thời xưa. Chúng tôi lên núi từ sáng sớm, tới quá trưa, khi mặt trời đã ngả bóng mới đi được cách Bạch Vân Quán trăm trượng. Ngẩng đầu đã có thể trông xa thấy cổng đá trắng nguy nga, dường như có mây mù lượn lờ bao quanh. Trăm bậc thềm đá, uốn lượn khúc khuỷu, như thang lên trời, rất chi hùng vĩ. Nghỉ chân một lát, chúng tôi tiếp tục leo núi. Trước cổng có một bậc thềm khá cao, chạm khắc hình hạc tiên và tùng tuyết. Công chúa được Uy Nhuy đỡ lên, tôi đang định bước tới thì thấy Công chúa quay người, khẽ cúi xuống đưa tay về phía tôi. Đôi mắt nàng đen láy, ánh mặt trời chiếu rọi, bóng nàng bao phủ lấy tôi. Tôi đẫn đờ tại chỗ, đầu óc trống rỗng, chỉ biết nhìn bàn tay trắng ngần mềm mại của nàng. Trước đây, nàng từng nhiều lần rủ xuống tay áo, tựa như đang chờ tôi nắm lấy, nhưng lần nào tôi cũng lặng thinh từ chối. Còn việc nàng chủ động chìa hẳn cả tay ra với tôi thế này, dù là quá khứ hay hiện tại, đều là chuyện chưa từng xảy ra. Trái tim tôi như có thứ gì đó đang nảy mầm, dụ dỗ tôi bắt lấy tay nàng. Tôi bất giác đưa tay ra, dưới ánh mắt trầm tĩnh của Công chúa, tôi từ từ chạm vào đầu ngón tay nàng. Chỉ một khoảnh khắc, tôi lại đột ngột rụt tay về, như bị một luồng sét đánh trúng, tim đập trống dồn, lập tức tránh nàng mà đi, nhanh chóng bước lên bậc thềm. Công chúa khựng lại, thoắt chốc, nàng lần nữa trở về điệu bộ lạnh nhạt thường ngày, lẳng lặng nhìn tôi một cái thật sâu rồi rảo bước vào đạo quán. Tôi cúi đầu theo sau, tim vẫn đập loạn nhịp. Cách đó không xa, trước đạo quán có hơn hai mươi nữ đạo trưởng áo lam và mười mấy tiểu đồng đang đợi sẵn. Dẫn đầu là vị quán chủ của nơi này, đạo hiệu Diệu Chân, khoảng ba mươi tuổi, dáng người cao ráo, mày thanh môi mỏng, mặc một bộ đạo bào xanh sẫm cổ giao lĩnh trắng, đầu đội liên hoa quan [2] bằng sa xanh. Quán chủ tiến lên mời Công chúa vào đạo quán, cũng gật đầu chào chúng tôi, ánh mắt khi thấy tôi có dừng lại một thoáng. [2] Một loại mũ đội đầu thời xưa, dùng để búi tóc, có hình dáng như một đóa hoa sen đang nở. Công chúa cũng gật đầu với quán chủ, rồi theo đối phương vào trong, hỏi: "Tôn nương tử đến chưa?" Diệu Chân đáp: "Ngày kia chắc sẽ tới." Công chúa lại hỏi: "Phùng đại gia thế nào rồi?" Diệu Chân đáp: "Vẫn thường ở trước điện thờ. Hôm nay Quý chủ đến, đại gia vui lắm, chỉ là mấy hôm trước bị trúng nắng, giờ rất mệt mỏi, không dậy nổi." Công chúa đâm chiêu, đoạn nói: "Nếu đã vậy, ta đến xem một chút trước, quán chủ cứ sắp xếp cho họ đi." Diệu Chân đáp vâng, rồi mời chúng tôi vào trong đạo quán. Tôi nhìn bóng lưng Công chúa từ xa, nghĩ rằng vị cố nhân kia chính là vị đại gia bị trúng nắng này. Trong đạo quán bài trí đơn sơ, cảnh vật thanh nhã, cũng như tôi đoán, trồng rất nhiều hoa cỏ, chỉ có điều khiến tôi ngạc nhiên là bốn phía đạo quán trồng rất nhiều hoa bào đồng. Tôi không khỏi hỏi: "Hoa bào đồng này có từ trước rồi sao?" Diệu Chân khẽ cười: "Vốn là không có, chỉ là sau này Quý chủ thường đến, cảm thấy lạnh lẽo, bèn cho người trồng lên." Tim tôi khẽ nảy lên một nhịp, im lặng không đáp, chỉ vỏn vẹn theo Diệu Chân bước vào một khoảng sân. Đinh Lan và Triệu nương tử vì cần chăm sóc sinh hoạt cho Công chúa nên nơi ở không cách phòng nàng bao xa, còn chỗ ở của tôi lại khá yên tĩnh, hẻo lánh, cửa nam đi ra chính là hậu sơn. Nghe Diệu Chân nhắc đến, hậu sơn của đạo quán có một thác nước, treo lơ lửng như dải ngân hà, bốn mùa đều chất chứa cảnh đẹp, nếu tôi rảnh rỗi cũng có thể đến xem. Tôi bèn gật đầu cảm tạ. Diệu Chân lặng lẽ nhìn tôi, nơi mày mắt chất chứa nụ cười bí ẩn, khiến tôi hơi căng thẳng, chỉ cảm giác những đạo trưởng này dường như luôn có tài nhìn thấu tâm can người khác. Có lẽ vẻ mặt tôi quá bất an, Diệu Chân thu lại nụ cười, thẳng thắn và trực tiếp vạch trần bí mật nội tâm tôi: "Cư sĩ nặng lòng với Quý chủ phải không?" Tôi ngỡ ngàng nhìn Diệu Chân, nhất thời lúng túng, song dưới ánh mắt trầm tĩnh của ấy, tôi đành chịu thua: "Quán chủ là người tu đạo, cũng quản cả chuyện trần tục này sao?" Diệu Chân khẽ cười: "Vốn không muốn quản, chỉ là thấy cư sĩ trông thật đáng thương, nên không khỏi hỏi một câu." Cả đời này là lần đầu có người nói tôi đáng thương, khiến tôi bật cười, dẫu vậy không thể phản bác: "Là thế thì sao?" Tôi tưởng Diệu Chân sẽ ngạc nhiên trước lời thừa nhận của tôi, nhưng vẻ mặt kia vẫn như cũ, hệt đã hiểu rõ mười mươi: "Nhưng cư sĩ không dám nói, đó chính là chỗ đáng thương của cư sĩ." Tôi ngỡ ngàng, muốn mở miệng phản bác lại nghe Diệu Chân nói: "Cư sĩ cảm thấy mình không xứng với Quý chủ, vì thế không dám nói cho Quý chủ biết. Hay là, vì mình thân là nữ nhi, cảm thấy nếu nói ra sẽ khiến Quý chủ chán ghét, cho nên do dự không quyết, chỉ một lòng muốn trốn chạy." Trầm mặc một lúc, tôi lên tiếng: "Sao quán chủ lại cho rằng ta muốn rời đi chỉ vì không nhận được hồi đáp của Đại trưởng công chúa?" Giọng Diệu Chân nhẹ bẫng, nhưng câu nào câu nấy như dao đâm: "Bởi vì cư sĩ chính là người như vậy, yếu đuối, rối rắm, không chịu đối mặt với kết cục không thể chấp nhận được, đành giả vờ như không quan tâm, cố tình từ bỏ, để tỏ ra mình phóng khoáng." "Quán chủ và ta không quen biết, nói những lời ấy có phải quá võ đoán không?" Tôi hơi vội vàng, là tâm sự bị người không liên quan vạch trần, cảm thấy vô cùng xấu hổ. Diệu Chân thờ ơ, chỉ buông câu: "Nếu cư sĩ thật sự muốn buông bỏ, chi bằng nói rõ với Quý chủ, ngày sau trời cao biển rộng, mới được coi là tự tại." Tâm khảm cuồn cuộn một trận xáo động, một luồng khí tức uất nghẹn sinh sôi, nhưng tôi không biết nên trút ra sao, buộc miệng hỏi Diệu Chân: "Vì sao quán chủ lại nói với ta những lời này, huống hồ quán chủ mới gặp ta thì biết được bao nhiêu về ta?" "Bần đạo tuy mới gặp cư sĩ nhưng đã quen biết Quý chủ từ lâu." Diệu Chân đáp. Tôi hơi giật mình, chưa kịp phản ứng lại nghe câu kế: "Hơn nữa, cư sĩ cứ coi như là để bần đạo chuộc lại lỗi lầm ngày xưa đi." "Lỗi lầm?" Tôi khó hiểu dán mắt vào Diệu Chân, "Quán chủ nói vậy là có ý gì?" Diệu Chân buông tiếng thở nhẹ, cúi đầu nhìn tôi: "Cư sĩ không biết đó thôi, bần đạo từng có hai vị mẫu thân, nhưng thuở nhỏ lại cảm thấy vô cùng nhục nhã vì điều đó, cho rằng thế gian này vốn dĩ phải lấy phu thê làm lẽ thường, hai người phụ nữ ở cùng nhau là trái với lẽ đời. Vì vậy, bần đạo thường tỏ thái độ coi thường với mẹ nuôi, nhiều lần bất kính với bà. Mẹ ruột thấy bất an, cũng là vì tương lai bần đạo có thể tìm được một tấm chồng tốt, nên đành phải mời mẹ nuôi rời đi." "Mẹ nuôi không từ chối, ngay đêm đó liền thu dọn hành trang. Bần đạo tự thấy hả hê, nghĩ rằng đợi mình lớn lên, gả làm vợ người, cũng có thể tìm cho mẹ ruột một tấm chồng để dưỡng già. Nhưng từ khi mẹ nuôi đi rồi, mẹ ruột ngày ngày hồn vía trên mây, dù cố gắng gượng cười cũng vô cùng tiều tụy. Bần đạo rất không hiểu, hỏi bà có phải không khỏe trong người không, mẹ ruột lắc đầu không nói, chỉ bảo vì bần đạo, dù bà phải trả giá thế nào cũng không sao. Bần đạo bất an, lại vừa thấy vui mừng, vui vì mình không còn phải chịu người đời dị nghị, bất an vì sức khỏe mẹ ruột ngày một sa sút." "Cuối cùng một năm sau, mẹ ruột ngã bệnh. Bần đạo ngỡ bà sắp mất, khóc không thôi, lại nghe thấy trong mơ bà gọi tên mẹ nuôi. Hóa ra lời đồn là thật, mẹ ruột quả thật có tình ý với mẹ nuôi, nhưng bà lại nói với bần đạo, rằng bà vô cùng hối hận, không bày tỏ tình cảm của mình cho mẹ nuôi hay, khiến mẹ nuôi lúc ra đi cũng chỉ mang theo nỗi đau lòng." Tôi trầm mặc không lên tiếng, chuyện hai người mẹ này nghe có vẻ quen thuộc, cũng thật đau lòng, không khỏi hỏi tiếp: "Sau đó thì sao, chẳng lẽ hai vị mẫu thân của quán chủ không bao giờ gặp lại nhau nữa sao?" Diệu Chân hạ mi mắt, thở dài, nhìn tôi cười buồn: "Một tháng sau khi mẹ ruột ngã bệnh, bần đạo lại gặp được mẹ nuôi, mới biết bà không hề đi xa, chỉ trốn ở huyện bên cạnh, cũng luôn dò la tin tức của mẹ ruột. Nhưng những điều này, mẹ ruột đều rõ. Bần đạo vô cùng hối hận, cũng vô cùng xấu hổ. Lẽ đời ra sao, tục lệ thế nào, đều không thể sánh bằng tấm chân tình trao nhau, dù chưa từng tỏ bày bằng lời nói, nhưng họ nhớ thương đối phương, còn chân thành tha thiết hơn cả hôn nhân thế gian. Từ đó bần đạo hoàn toàn hiểu ra, mọi sự xấu hổ của bần đạo đều đến từ quy định của thế tục, chứ không phải tự mình trải nghiệm lòng người. Tình cảm của họ chưa từng làm tổn thương ai, cớ sao lại bị lẽ đời sỉ nhục? Vì vậy ta quỳ trước giường mẹ ruột, cầu xin mẹ nuôi ở lại, từ đó cũng thuận theo lòng mình, rời nhà lên núi tu đạo." Nghe xong lời Diệu Chân, nỗi khó chịu trong tôi đều tan biến. Hẳn là Diệu Chân không muốn thấy người có tình phải ôm tiếc hận, nên mới khuyên giải tôi. Tôi vô cùng cảm động, cũng bất giác lâng lâng vui mừng. Nghe hai vị mẫu thân của Diệu Chân có được kết cục như vậy, cũng không uổng một phen may mắn. Tôi không khỏi cúi đầu bái lễ: "Hóa ra lại có duyên cớ như vậy, trước đây đã hiểu lầm quán chủ, mong quán chủ lượng thứ." Diệu Chân cười nhẹ lắc đầu, lại hỏi: "Bần đạo chỉ hy vọng cư sĩ không lưu lại tiếc nuối. Hành động của Quý chủ trước cổng núi đối với cư sĩ rõ ràng khác biệt, chỉ vì cư sĩ không nhìn thấu, nên bần đạo mới hồ đồ đoán bừa như vậy." Tôi lặng thinh một thoáng. Lòng tôi quá đỗi sợ hãi sự khước từ của nàng, nhưng lại chưa từng nghĩ rằng, dẫu có bị từ chối, nàng cũng chưa chắc đã chán ghét tôi. Nghĩ đến đây, tâm tôi cũng yên ổn phần nào, bèn một lần nữa cảm tạ Diệu Chân. Diệu Chân cười nhạt không nói, có điều ánh mắt lại vượt qua tôi, dõi về phía sau lưng tôi. Tôi ngơ ngác ngoảnh đầu nhìn lại, liền bắt gặp Công chúa đã đứng cách đó không xa, vẻ mặt điềm nhiên.
---Editor: Ngồi nghĩ cả buổi mới load được tư thế đưa tay cho Phạm Bình nắm ở mấy lần trước của Công chúa có lẽ là tay đặt ngang chứ không phải chìa thẳng về phía người đối diện 😂